[Trinh Thám] Linh Hồn Ác

hoahongden12

Active Member

Ngôi nhà trên đồi cao của Camelia McCoy được bao quanh bằng một vòng dây an ninh màu vàng rung rinh trong gió. Nhiều xe cộ - hầu hết đều không tắt đèn pha - đỗ lộn xộn trên đường phố khi Brolin tới hiện trường.

Đêm đã xuống, viên thanh tra trẻ run rẩy khi bước ra khỏi chiếc Mustang, nhưng anh không dám chắc mình run vì lạnh hay vì sợ. Anh nhanh chóng nhận ra chiếc xe Ford quen thuộc, Gary Sheddon đang đưa cốc cà phê cho Juliette ở trong xe. Cô ngồi ở ghế trên, vai khoác một tấm chăn, cửa xe vẫn mở. Nhìn thấy Brolin, cô ra khỏi xe và lại gần anh, không nói lời nào.

Họ ôm chặt lấy nhau rất lâu, rồi Brolin lùi lại để nhìn vào mắt cô. Ánh đèn pha phủ lên gương mặt cô một lớp voan màu đỏ siêu thực.

- Em có chịu đựng được không? Anh hỏi và chỉ định cho cô biết rằng anh lo lắng chứ không chờ đợi câu trả lời.

Cô hơi nhún vai và lại ôm chặt lấy anh. Brolin cảm thấy ngực cô gái rung mạnh từng đợt, còn anh chỉ có thể lùa tay vào mái tóc cô. Không cần nói gì cả, đây chính là một trong những khoảnh khoắc của cuộc sống mà không một lời nào có thể an ủi được, chỉ cần im lặng, và sự có mặt chính là vũ khí duy nhất để lấy lại tinh thần.

Có hai người bước lại gần, một lính mới và một người ở phòng thí nghiệm, nhưng khi thấy hai khuôn mặt đau khổ, họ lại thôi. Lloy Meats làm nhiệm vụ chỉ huy tác chiến.

Một lúc lâu sau, Brolin để Juliette ngồi xuống và bảo mọi người mang tới cho cô một cốc trà nóng, anh đặt cốc trà vào giữa những ngón tay đờ đẫn của cô.

- Anh phải vào trong bây giờ, anh nhẹ nhàng nói.

Tấm chăn trượt trên vai cô khi cô gật đầu.

- Em biết.

Brolin thấy hai người của viện pháp y đang chờ anh trước cửa nhà, vẻ hơi sốt ruột.

- Gary và Paul sẽ đưa em về nhà và họ ở lại đó cho đến khi anh tới, được không?

Cô chỉ mím chặt môi, khiến máu tan đi cho tới khi đôi môi trở nên nhợt nhạt giống như một đường kẻ trên tuyết. Brolin hôn lên trán cô rồi quay đi.

Một giờ sau, Camelia McCoy được mang ra khỏi nhà trong một chiếc túi đen cũng kêu sột soạt như những chiếc túi du lịch khi người ta lên đường đi nghỉ.

Một chuyến đi xa.

Và mãi mãi

***

Đôi lúc thật kỳ lạ khi nhìn thấy sức mạnh của cảm xúc, như khi tình cảm của chúng ta vượt lên trên tri giác và trở nên đủ sức kéo căng thời gian cho tới khi đẩy chúng ta ra khỏi dòng chảy không thôi của nó, biến dòng chảy đó thành một yếu tố xa rời, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta. Giống như vậy, Juliette không trải qua những giờ phút tiếp theo trong cùng một thế giới, tâm trí cô vượt qua dòng chảy của thời gian để đương đầu được với nỗi đau.

Để mặc hai cảnh sát trong phòng khách, cô lên gác thu mình trong phòng riêng, nơi bất khả xâm phạm của cô. Thay vì ngã xuống giường và trút hết nước mắt trong người ra như nhiều người thường làm, cô đi đi lại lại một lúc lâu rồi mở cửa sổ. Cái lạnh ùa ngay vào phòng như một lũ ma xông xáo.

Juliette nghiêng người qua cửa sổ. Những ngôi sao lấp lánh bình yên trong không khí lạnh buốt. Hàng ngàn đôi mắt kim cương mờ đi vì khoảng cách của không gian đang bao trùm một cách uy nghi lên trái đất say ngủ.

Các vì sao đang thì thầm, cô nghĩ, chúng hát trong vũ trụ. Chiếu sáng những khoảng tối vô tận bằng vầng sáng rực rỡ của mình.

Juliette quay đầu về phía gác chuông nhà thờ của cha xứ Willem, cô tìm kiếm mặt trăng, nhưng chỉ thấy bóng tối và những đốm sáng kiêu ngạo của thành phố.

Nhìn ngắm hằng hà sa số những ngôi sao trên mặt đất ấy, Juliette lại nghĩ tới những lời mà Camelia nói với cô vài tháng trước, khi cô khó nhọc lấy lại tinh thần sau vụ bắt cóc và cái chết suýt giáng xuống đầu cô.

Cái chết luôn làm phiền, người ta không thích nó, và khi nó hiện diện, người ta luôn mong muốn nó ở xa con mắt mình.

Đúng vậy. Chỉ riêng ý nghĩ về cái chết đã không khiến tâm trí con người thích thú gì. Thậm chí chỉ đôi khi nó trở nên ám ảnh đến mức cuốn hút, nhưng người ta không thể thích nó. Juliette lại nghĩ tới con mèo Humus. Khi còn nhỏ, cô đã lớn lên cùng với con mèo mun to tên là Humus. Nó có mặt khi cô sinh ra, nó có mặt trong lễ rửa tội và cả trong lần sinh nhật thứ mười của cô. Humus luôn ở trong nhà, như một nhân vật không thể phủ nhận của đời cô, một yếu tố không thể thiếu của số phận quanh cô. Thế mà một buổi sáng, cô thấy Humus nằm dài ở chân ghế sofa, cái lưỡi tím tái thè ra trên nền gạch. Khi đó Juliette mới mười hai tuổi, cô không hiểu rõ sự việc, cô muốn ôm nó trong tay, nhưng cô cảm thấy thân thể bé nhỏ đó lạnh ngắt giữa các ngón tay cô. Hôm ấy, cô đã khóc rất nhiều. Cô chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó Humus có thể chết, và càng không thể nghĩ nó sẽ chết theo cách ấy. Không có cái vuốt ve cuối cùng, không một tiếng meo meo từ biệt, không gì cả, chỉ là cái xác lạnh ngắt trong một buổi sáng được nghỉ học. Sau đó, cô tình cờ nghe thấy bố nói với mẹ. “Lẽ ra nó phải chết ở bên ngoài chứ nhỉ? Anh nghĩ là bọn mèo thường đi trốn khi chết cơ mà? Phải, anh cũng vậy, anh cũng buồn lắm chứ, nhưng tệ quá! Hãy nghĩ tới Juliette, nhìn thấy xác con mèo khi ngủ dậy, em nghĩ như thế là tốt cho con sao? Ít nhất nếu con mèo chết ngoài phố hay trong vườn nhà hàng xóm, thì mọi chuyện sẽ nhẹ nhàng hơn. Chúng ta sẽ không thấy gì, dù sao thì Juliette cũng không thấy gì, rồi không thấy nó về, chúng ta sẽ rút ra kết luận là nó chết. Như thế nhẹ nhàng hơn.”

Juliette đứng lại trên bậu cửa bếp rồi rón rén quay nửa vòng để trở về phòng mình và để tiếp tục khóc. Người lớn không thích cái chết. Chắc chắn rồi. Họ thích nó diễn ra cách xa cặp mắt dễ bị gây ấn tượng của họ. Phía sau cánh cửa sổ đóng kín.

Juliette cứ ngồi mãi trên bậu cửa sổ cho tới khi cả tâm trí lẫn thân thể tê đi vì lạnh.

Khi Joshua Brolin tới, anh thấy cô cuộn tròn trên giường. Anh kéo lại chăn để cả người cô được ấm áp rồi cởi đồ và nằm xuống ôm chặt lấy cô. Anh thắp một ngọn nến nhỏ, và khi nhìn Juliette, anh bỗng nghĩ rằng người ta ngủ không chỉ để nghỉ ngơi. Mà còn để sống tốt hơn, để chữa lành những nỗi bất hạnh. Cuối cùng, giấc ngủ làm dịu các nỗi đau, khiến chúng tan ra và biến thực tế thành ký ức.

Có lẽ giấc ngủ là thánh đường thực duy nhất của sự thanh thản mà con người có được, anh tự nhủ.

Anh đặt một bàn tay lên đầu Juliette.

Mi mắt cô giật giật trong những giấc mơ đáng sợ.
 

hoahongden12

Active Member

Bác sĩ Sydney Folstom đậy nắp cái lọ cuối cùng. Có tới chín cái lọ đặt trên nền gạch cạnh bàn phẫu tích chứa đựng các mẫu phẩm khủng khiếp trong một dung dịch formol trung tính 10%. Tất cả các lọ đều đựng khoảng từ 30 đến 80ml gan, tim, máu, nước tiểu và tất cả những thứ cần thiết cho các cuộc khám nghiệm chất độc và giải phẫu bệnh học sau khi chết.

Một trợ lý quay lại báovới bác sĩ và thanh tra Brolin rằng một bản copy các ảnh X quang đã được sao để gửi cho cảnh sát. Phần lớn xác của Camelia đã bị thiêu cháy, nên khó phân tích được nửa người trên bằng mắt thường. Khám nghiệm bằng tia X đã được thực hiện nhằm làm rõ những phần mà các vết bỏng nghiêm trọng che mất và để tiết kiệm thời gian, người ta sử dụng một chiếc máy làm tăng độ chói kèm theo một thiết bị in ảnh. Như vậy người ta có thể quét nhanh toàn bộ cái xác và cho ra ảnh chụp các vùng nghi án. Nhưng việc này không giúp tiến triển gì, bằng phương pháp loại trừ, ít nhất người ta cũng có thể nói rằng cô gái chắc chắn không bị giết bằng súng. Cổ cũng bị cháy đen, người ta chụp ảnh được nhờ một cái máy lấy nét cực nhạy, một faxitron có phim độ nét cao cho phép đạt được chất lượng tốt nhất khi chụp tất cả các bộ phận rất nhỏ như thanh quản, xương, răng… Ở đây, người ta cũng không thấy bất cứ một vết gãy nào ở góc sụn tuyến giáp, vốn là đặc trưng của hành động bóp cổ. Cái chết là do nguyên nhân khác.

Kết luận trong báo cáo của pháp y cho rằng đối tượng chết do mất nhiều máu sau khi bị đâm từ tám đến mười hai nhát - các vết bỏng quá lớn không cho phép xác định chính xác số lượng vết thương do dao đâm - và rằng cô gái đã chết trước khi cơ thể cô bị đốt.

Có được những dữ liệu ghê rợn này, Brolin rời nhà xác của Portland để quay về phòng làm việc của mình ở trung tâm thành phố. Ở đó, anh gọi cho Juliette như đã làm trong buổi sáng, và mặc dù họ không nói chuyện nhiều với nhau, nhưng anh cảm thấy cô yên tâm hơn. Họ yên tâm hơn.

Dù qua điện thoại, qua email, trong sảnh tòa nhà hay ở lối ra của bãi đỗ xe, Brolin đều tránh được các nhà báo chầu trực suốt cả ngày với hy vọng mong manh là nhận được một lời bình luận từ viên thanh tra trẻ. Không hề có tuyên bố chính thức nào về mối liên hệ giữa vụ giết Camelia và hai vụ giết người của Hồn ma Leland, nhưng người ta nhanh chóng biết việc thanh tra Brolin có mặt ở hiện trường vụ án, vì thế báo chí thích thú làm công việc của mình. Người ta bắt đầu nói về nạn nhân thứ ba của “Hồn ma”, khiến giờ đây hắn trở thành “kẻ giết người hàng loạt” đáng sợ theo đúng định nghĩa của từ này, tức là có ít nhất ba nạn nhân. Nhưng phần lớn các điệp viên FBI làm việc trong Tổ khoa học hành vi ở Quantico đủ khả năng khẳng định rằng họ đang đối mặt với một serial killer nguy hiểm kể từ nạn nhân đầu tiên của hắn, và Brolin cũng không thoát khỏi quy luật do được đào tạo như vậy. Ngay lúc phân tích vụ giết Anita Pasieka, anh đã nhận ra cách sắp đặt, sự nghi thức hóa và cách hành động được tính toán kỹ lưỡng chỉ có ở những kẻ giết người hàng loạt. Anh chưa dám chia sẻ với ai, nhưng trong thâm tâm, anh sợ rằng Anita không phải là nạn nhân đầu tiên. Mặc dù còn mò mẫm, nhưng hung thủ cũng đã chứng tỏ một mức độ tinh vi, nhất là cách hắn chuẩn bị hiện trường vô cùng tỉ mỉ cho thấy rõ hành vi phạm tội thành thục của hắn. Càng điều tra, Brolin càng tin chắc rằng hung thủ là một kẻ bị điều khiển, một công cụ. Trong khi Quạ là một kẻ đáng sợ, một kẻ tâm thần xảo quyệt và đây không phải lần đầu hắn phạm tội.

Rồi có cả sự leo thang của tội ác nữa.

Càng ngày nhu cầu giết chóc của kẻ giết người hàng loạt càng trở nên cốt tử. Lúc đầu, hắn còn dè chừng, hắn giết người và đợi nhiều tháng rồi mới thực hiện tiếp. Nhưng càng ngày hắn càng giết nhiều hơn, càng thấy rằng ảo ảnh vẫn chưa hết, càng tự tin vì không bị tóm. Việc rút ngắn thời gian giữa các vụ giết người, từ nhiều tháng xuống vài tuần, thậm chí vài ngày, chính là sự leo thang của tội ác. Thế mà trong trường hợp hiện tại, đã có ba nạn nhân trong vòng hai tuần, điều này khiến người ta nghĩ rằng kẻ giết người thích bạo lực với một tốc độ chóng mặt. Hoặc là hắn đã giết người trước đó, một cách bí mật, tạo khoảng cách xa về thời gian giữa các nạn nhân.

Theo quy luật thông thường, kể từ vụ án thứ hai, Brolin đã gửi yêu cầu hỗ trợ đến chương trình VICAP. Bản báo cáo dài mười lăm trang đó giúp miêu tả chi tiết các vụ giết người mà một thanh tra cảnh sát phải đương đầu, nó được gửi tới FBI, sau đó FBI nhập các dữ liệu vào một máy tính tốc độ cao để phân tích. Nếu ở nơi nào đó trên lãnh thổ Mỹ xảy ra một vụ phạm tội tương tự, với cách hành động như thế hoặc một dấu ấn giống hệt, thì ngay lập tức vụ việc sẽ được đặt trong mối liên kết để có thể tìm ra một tên tội phạm đã hành động ở những nơi khác nhau trên đất nước, trong các phạm vi xét xử khác nhau. Borlin đã trả lời hết sức cẩn thận 189 câu hỏi của báo cáo VICAP và nhanh chóng gửi trả tất cả. Trong thời gian chờ xử lý yêu cầu, rồi đối chiếu với 5.849 trường hợp đã lưu trong máy tính, việc nghiên cứu có thể kéo dài vài tuần.

Thứ tư ngày mười ba tháng Mười là ngày may mắn đối với Brolin trong hệ thống hành chính Mỹ mênh mông và mù mịt, bởi vì câu trả lời của chương trình VICAP được gửi tới vào buổi chiều.

Nhưng thật đáng thất vọng. Cách hành động có thể giống với nhiều vụ án khác, nhưng dấu ấn lại là độc nhất. Trừ một kẻ giết người. Nhân viên xử lý yêu cầu của Brolin đã đánh dấu đỏ vào sự giống nhau khó tin giữa các vụ mới đây và sự tàn bạo của Leland Beaumont một năm trước.

Ít nhất, Brolin cũng có được bằng chứng rằng hung thủ không gây những vụ giết người khác trên khắp nước Mỹ, trừ khi hắn thay đổi dấu ấn tội ác, điều này trên lý thuyết là không thể xảy ra. Một con người không thể đi đến chỗ giết người, chặt chân tay và gây đau đớn đến mức vượt qua các ranh giới của sự hấp hối như vậy trong một sớm một chiều. Để trở thành một con quái vật như thế, hắn phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và chỉ bắt đầu giết người khi các xung năng chết trong hắn trở nên quá mạnh, không thể kìm nén được nữa. Vì thế, hắn giết chóc theo một sơ đồ rất chính xác, sơ đồ mà hắn đã xây dựng suốt một thời gian dài, thậm chí hắn đã lặp đi lặp lại sơ đồ ấy không biết bao nhiêu lần trong đầu đến mức nó trở thành nỗi ám ảnh, dẫn hắn tới chỗ phạm tội giết người lần đầu tiên. Đó là một cái vòng vô cùng luẩn quẩn. Và người ta không thể thay đổi sơ đồ ấy, đó là “lý do” giết người của hắn, điều kiện thỏa mãn cần thiết để hắn vượt qua nỗi kinh hoàng về việc mà hắn làm và chỉ quan tâm đến thú vui xuất phát từ việc làm này. Thay đổi ảo ảnh ấy, dấu ấn ấy, tức là phải thay đổi cá nhân, tất cả những gì đưa hắn đến chỗ giết người, đây là điều không thể.

Như vậy, kẻ giết người không thể là tác giả của những vụ giết người khác ở đâu đó mà không có dấu ấn của hắn. Trừ khi chúng không được lưu lại hoặc cách hành động và dấu ấn không được xác định một cách đúng đắn.

Đó là một cách giải thích. Lực lượng cảnh sát trên cả nước không hợp tác một cách có hệ thống với FBI và VICAP.

Còn một khả năng khác.

Một khả năng mà Brolin không muốn đối mặt ,vì nó không thể chấp nhận được.

Một kẻ duy nhất đã giết chóc và để lại dấu ấn rất đặc trưng này.

Leland Beaumont.

Nếu Quạ là kẻ giết người, hoặc đã từng giết người ở một thời điểm nào đó trong đời hắn, thì Leland Beaumont trở thành kẻ tình nghi lý tưởng.

Không ai ngoài hắn lại trùng hợp chính xác đến thế với Quạ. Bạo dâm, thông minh, thích điều khiển người khác, hiểu biết hoàn hảo về cách hành động của Đao phủ bởi vì đó chính là hắn!

Không! Rõ ràng là không thể. Kẻ đã chết không thể giết người được.

Brolin tự nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần, như một câu kinh thánh để chống lại nỗi sợ hãi.

Nhưng đến bảy giờ tối, khi Salhindro tới đón anh trong phòng làm việc, anh vẫn còn run.

***

Larry Salhindro đứng trước dấu niêm phong của cảnh sát.

- Cười đi, người ta đang chụp ảnh lia lịa kìa, ông vừa nhận xét vừa chỉ vào phóng viên ảnh đang chĩa ống kính về phía họ từ trong xe ô tô.

Brolin không để ý đến những lời của Salhindro, anh ra hiệu cho ông mở cửa.

Anh muốn quay lại nhà Camelia vào giờ này để có mặt ở hiện trường đúng thời điểm của ngày mà hung thủ đã hành động bốn mươi tám giờ trước.

Sự việc chỉ vừa mới diễn ra, vẫn còn nóng hổi, hầu như vẫn còn cảm nhận được mùi hơi kinh hoàng trong không gian.

Brolin vào trước và lên thẳng tầng hai, Salhindro theo sát anh. Anh đi qua phòng ngủ, dừng lại trên ngưỡng cửa phòng tắm và bật công tắc điện. Một hình người vẽ bằng phấn nằm dài trên nền gạch; một mảnh vải thô đen phủ lên một phần nền nhắc cho người ta nhớ rằng mùi luẩn quẩn ở đây là mùi thịt cháy.

- Có thật anh tin rằng chính kẻ mà chúng ta đang tìm đã làm việc này? Salhindro sốt ruột hỏi. Tôi muốn nói là không trùng hợp với hắn tí nào, hắn thường không dùng lửa. Hắn thích cho mọi người thấy việc hắn đã làm, hắn cần gây sốc, vậy thì tại sao lần này hắn lại muốn che giấu vụ giết người bằng lửa? Đừng bỏ qua giả thiết về một kẻ bệnh hoạn khác, anh không nghĩ thế sao?

- Không. Đó đúng là hắn. Juliette đã xác nhận, Quạ đã gọi cho cô ấy.

- Tôi biết, nhưng hắn không nói gì cụ thể cả, đó có thể là một thằng điên bất kỳ! Nói thật nhé, ở đây anh là chuyên gia về hành vi của tội phạm, nhưng anh thấy có nhiều điểm giống với những gì hắn thường làm không? Hắn không chặt đi gì cả, hắn đốt cái xác. Đồng ý là có axit trên trán, nhưng chỉ thế thôi. Anh có biết tôi nghĩ đến cái gì không?

Brolin bước lên một bước.

- Tôi nghĩ đến nỗi sợ! Tôi có cảm tưởng rằng đây là một giáo phái. Mà tại sao lại không nhỉ? Chúng có thể có nhiều người, cả một nhóm rối loạn thần kinh và một lãnh tụ tinh thần, mỗi tên có cách hành động riêng… Chúng lần lượt giết người.

Brolin đi vòng quanh vạch phấn rồi đứng lại trước bồn rửa. Tấm gương lớn treo bên trên bị vỡ ở nhiều chỗ, mảnh còn lại trên tường bị bôi bẩn bằng nhiều loại mỹ phẩm khiến người ta không thể nhìn thấy mình trong gương.

- Hắn không thể chịu được hình ảnh của mình trong gương. Nếu hắn đập vỡ gương trước khi giết cô gái, tôi đánh cuộc rằng hắn bị một dị tật nào đó trên cơ thể, có lẽ trên mặt. Nếu đập vỡ sau khi giết chết cô gái, tức là hắn tỏ ra hối hận hoặc ít nhất là cảm thấy tí chút tội lỗi, điều đó càng khẳng định giả thiết của tôi về chuyện hắn bị điều khiển.

- Sao lại thế?

Brolin dựa vào thành bồn rửa và ghé mặt lại gần bề mặt gương bị bôi bẩn.

- Vì đó là một con người yếu đuối, mẫn cảm. Hắn đã đau khổ và tiếp tục đau khổ, nhưng kẻ khác ở bên trên hắn, là thầy của hắn, chế ngự hắn và bằng cách nào đó đã nhìn thấu ảo ảnh của “con rối” và biết cách sử dụng chúng để đưa “con rối” tới chỗ thực hiện các ham muốn của “thầy”. Kẻ giết người đấu tranh giữa các cảm xúc mâu thuẫn nhau, nhu cầu ấy, mệnh lệnh khẩn thiết phải giết người để tự thỏa mãn ấy, nhưng tận đáy lòng, hắn biết mình hành động tồi. Tuy nhiên hắn vẫn muốn làm việc đó, và Quạ, “thầy” của hắn, khơi dậy ngọn lửa trong hắn.

Salhindro lẩm bẩm điều gì đó không rõ ràng.

- Đó là một giả thiết đơn giản, Brolin nói thêm và quỳ xuống cái xác nằm mới tối hôm qua.

Bầu trời đã quang đãng, ánh trăng chiếu xuống sàn gạch bóng loáng. Brolin liếc nhanh về phía cửa sổ. Anh từng đưa ra khả năng về tầm quan trọng của chu kỳ mặt trăng đối với việc lựa chọn ngày giết người, giống như vài trường hợp giết người hàng loạt hơi bí hiểm; nhưng với khoảng cách ngắn giữa các vụ giết người, lý thuyết đó đã bị phá sản. Dù sao, bầu trời cũng không quang đãng vào buổi tối ngày Camelia bị giết, mây liên tục che khuất mặt trăng.

Brolin lướt đầu ngón tay theo vết lửa trên mặt sàn.

Cái gì đã khiến mày thay đổi cách hành động? Chắc chắn phải có một lô gic. Tại sao lần này mày lại đốt xác?

Viên thanh tra trẻ đã mổ xẻ kỹ hai vụ giết người trước đây, anh đã phân tích từng chi tiết, thiết lập toàn bộ diễn biến cảm xúc của hung thủ, ít nhất là bằng cách đặt mình vào vị trí của hắn. Với nạn nhân thứ ba này, các dữ liệu bắt đầu đủ nhiều để anh có thể phác họa một tính cách có sức thuyết phục, để anh cảm thấy kẻ giết người.

Anh tập trung tư tưởng. Anh vừa mất hai tuần nhập thông tin, sắp xếp chúng trong đầu, nghiền ngẫm chúng. Giai đoạn ngâm đã hết, bây giờ là lúc đưa tất cả lên bề mặt.

- Larry, anh làm ơn ra đợi tôi ở ngoài xe đi.

Salhindro vẫn đứng yên, ông biết anh bạn đồng nghiệp của mình và không bực bội vì lời nói này, Brolin đã đề nghị ông đi cùng để làm chỗ dựa, một nhị thức cho tinh thần và cho cả tư duy. Chưa đầy một giờ nữa, Larry sẽ thấy anh bạn tới chỗ mình, trong trạng thái hơi xúc động và cần chia sẻ ý nghĩ, cần một cái đầu khác giúp chỉnh sửa các lý thuyết anh bạn đó đưa ra.

Khi Salhindro đi xuống, Brolin bắt đầu nhớ lại tất cả những chi tiết mới ghi nhận về vụ sát hại Camelia McCoy. Anh tưởng tượng lại cảnh hiện trường trong buổi tối đầu tiên; anh nhớ lại những nhận xét của các nhân viên phòng xét nghiệm; và ca giải phẫu tử thi đã bổ sung vào đầu óc anh những thông tin cần thiết. Từ đây, anh biết được những nét chính của sự việc xảy ra tối hôm đó.

Từ quan điểm hoàn toàn dựa trên sự việc.

Anh còn phải đặt mình vào vị trí của hung thủ, để biết chuyện gì đã xảy ra về mặt cảm xúc.

Trong vài giây, anh đứng ở cửa sau, trong cái lạnh của đêm.

Hắn không để lại dấu vân tay nào, chứng tỏ hắn đi găng, như mọi khi.

Viên thanh tra trẻ rút từ trong túi ra một đôi găng tay mà anh mượn của Terry Pennonder, một đồng nghiệp luôn đeo găng khi lái xe.

“Tôi đứng trước cửa bếp, tôi vừa đi đôi găng tay da và chúng khiến tôi yên tâm. Hành động này bắt đầu có một ý nghĩa rất lớn, đây là lần thứ ba. Chỉ cần cảm thấy các ngón tay thọc sâu vào lớp lót là tôi đã rùng mình.

“Cánh cửa nhanh chóng mở ra, đi vào không phải là vấn đề. Tôi không thấy chút ánh sáng nào tỏa ra từ tầng trệt, chỉ có một tia sáng trên tầng, vì thế tôi biết rằng không có gì nguy hiểm cả. Tôi biết cô ấy ở đâu, tôi cảm thấy cô ấy, còn cô ấy thậm chí không ý thức được ánh mắt của tôi qua vách ngăn. Sự có mặt của tôi giữa các bức tường. Trong cô ấy.”

Brolin đi qua phòng khách rồi đến gần cầu thang. Toàn bộ ngôi nhà chìm trong bóng tối, trừ phòng tắm nhưng không thể nhìn thấy gì từ bên dưới. Đêm lọt vào đến tận phòng khách, ở đây bóng tối đặc lại như những vết mực khổng lồ bao trùm các đồ vật. Khó có thể tiến về phía trước mà không đụng chân phải một thứ đồ đạc, vì thế Brolin lấy chiếc đèn pin ra và bật lên, chĩa chùm ánh sáng xuống nền nhà, ngay trước mặt anh.

“Đèn là phần kéo dài của mắt tôi. Nó chiếu vào đâu, tôi nhìn thấy đó, tôi điều khiển nó.”

Anh đặt chân lên bậc thang đầu tiên và nhắm mắt lại.

“Chính ở đây, căng thẳng bắt đầu tăng cao, lần này tôi đang ở rất gần, cô ấy gần như nằm trong tầm tay tôi. Bên trên những bậc thang kia, mọi thứ sẽ diễn ra nhanh chóng. Tôi mong sao thời gian dừng lại, để tận hưởng được lâu hơn.”

Brolin chiếu đèn xung quanh mình, chiếu vào các bậc thang tiếp theo để tìm dấu vết, có lẽ hung thủ đã dừng lại ở đây vài phút để nghe ngóng điều đang diễn ra bên trên, sự sống. Không có gì cả. Vì biết chuyện gì sẽ đến, nên Brolin đã yêu cầu mọi người xê dịch và lục lọi hiện trường ở mức tối thiểu trong buổi tối tìm thấy xác chết. Càng ít người đến hiện trường càng tốt để không làm ô nhiễm nơi đây. Mặc dù đã đề phòng như vậy, nhưng khó có chuyện một dấu vết còn sót lại trên cầu thang nơi rất nhiều cảnh sát đi lên đi xuống. Anh tiếp tục đi lên.

“Ở mỗi bậc thang, tim lại đập nhanh hơn. Kiến bắt đầu bò ở dương vật, đó chính là sự hòa trộn giữa trạng thái hưng phấn, lòng thù hận và nỗi sợ hãi. Dương vật của tôi cứng lại, điều này khó xảy ra khi gặp một phụ nữ trong hoàn cảnh bình thường, và nó khiến tôi cảm thấy vừa thích thú vừa như bị tước đoạt. Bậc thang cuối cùng.

“Hành lang dường như dài vô tận dưới tia sáng quá mảnh phát ra từ đèn pin của tôi. Nhưng cửa phòng hé mở, tôi đã thấy ánh sáng mờ hắt từ cửa phòng tắm lên tấm thảm trải trong phòng ngủ. Tôi tắt đèn pin. Cô ấy đang ở rất gần. Hơi thở đứt quãng và sâu của tôi xâm chiếm không khí, đó là dấu hiệu duy nhất về sự có mặt của tôi. Tiếng nước vẳng đến tai tôi và tôi thấy cô ấy trần truồng trong bồn tắm. Nhịp tim tôi giờ đây lan xuống tận đầu dương vật đang bị kích thích. Găng tay của tôi sột soạt nhẹ khi tôi chầm chậm mở cánh cửa. Tôi rất thích tiếng kêu của da.

“Rồi đột nhiên cô ấy ở ngay đây. Cơ thể mềm mại trong nước nóng, bộ ngực nổi lên như những bọt khí treo lơ lửng, cặp đùi láng bóng, lông mu được cắt cẩn thận nhấp nhô trong nước. Ngay lập tức rất nhanh, cực kỳ nhanh, cô ấy nhìn thấy tôi và khuôn mặt cô ấy tan ra trong cơn tức giận của tôi. Tôi đã muốn đứng ở đó để nhìn cô ấy thật lâu, nhưng cô ấy không cho tôi thời gian. Thế là tôi nhảy bổ vào cô ấy, đập thật mạnh vào mặt cô ấy, tạo thành một vết bầm máu lớn trên hàm, khiến cô ấy suýt chết. Cô ấy không thể cựa quậy được trong bồn tắm, cô ấy trượt dần và làm nước bắn lên các bức tường trắng tinh. Cô ấy không kịp kêu lên, tôi đâm cô ấy một nhát vào phổi trái bằng lưỡi dao rất mảnh. Bộ ngực mà lúc trước tôi muốn ngắm nhìn thật lâu và chạm vào giờ đây đã bị xuyên thủng, mỡ trào ra như nước khi con dao được rút ra. Một lần. Hai lần. Ba lần. Dương vật của tôi chạm vào quần dài vì nó đang cương lên; tim tôi đập như muốn vỡ tung, tôi rùng mình dưới tác động của lượng adrenalin quá đậm đặc và tôi bị co thắt đường thở. Nữa. Nữa. Nữa. Những giọt nước trên tường lẫn thêm nhiều giọt máu. Chúng chảy nhanh hơn rất nhiều, để lại phía sau một vệt dài màu hồng.”

Brolin như thấy lại toàn bộ cảnh tượng, các báo cáo đã biến thành hành động, tiếng thét, tiếng rên rỉ, vết nước bắn lên. Anh gần như không nhận ra mình đang vừa cố nén tiếng nức nở vừa bắt chước một số hành động, răng nghiến chặt đến gần vỡ men.

Anh thấy hắn dùng dao đâm vào người Camelia hơn chục nhát, cảm thấy cơ thể cô đổ vào người hắn và nghe thấy rõ âm thanh khô khốc khi đầu cô đập xuống nền nhà. Lần này, ham muốn của hắn không bùng lên ngay lập tức. Cô gái vẫn còn sống và đang hấp hối khi hắn dang hai đùi cô ra.

Phải, lần này, hắn không cắt bộ phận sinh dục của cô, hắn không cảm thấy bớt bị tước đoạt và giận dữ vì hắn đã cọ xát vào người cô.

Hắn thỏa mãn dục vọng trên người cô!

Chính vì vậy hắn đã đốt cô! Hắn thỏa mãn dục vọng trên người cô, hắn đã để lại một dấu vết trực tiếp, và hắn phải xóa bỏ tất cả, vì thế hắn quyết định dùng lửa để làm mọi thứ biến mất!

Đầu óc sôi sục, Brolin không còn thấy hình vạch phấn trên nền, anh thấy Camelia trần truồng và be bét máu. Anh nhớ tới hai chai whisky mà một nhân viên phòng thí nghiệm tìm thấy trong thùng rác ở bếp. Hung thủ không định đốt xác, hắn phải dùng thứ mà hắn tìm thấy ở hiện trường. Phải chính xác là thế, hắn đã vượt qua một giai đoạn và hắn khiếp sợ. Nhưng chính vì vậy, sự hưng phấn của hắn càng trở nên không cùng, chắc chắn hắn không muốn dừng lại ở đây. Trong hắn có một ham muốn tốc độ, hắn muốn làm, hắn có thể làm được!

Rồi đến tấm bùa hình ngôi sao năm cánh, cần phải bảo vệ mình khỏi linh hồn của nạn nhân. Hắn dùng mũi dao khắc hình sao rồi đổ axit lên để che giấu. Hắn tự trách mình không có thêm axit để đổ lên toàn bộ cái xác, để mọi việc dễ dàng hơn. Hắn phải tìm cái gì đó để xóa dấu vết bằng lửa. Hắn ra khỏi phòng tắm.

Ham muốn vẫn còn rất dữ dội, ngắn ngủi quá, chưa kiềm chế đủ, mới mẻ quá. Hắn vẫn còn muốn nữa, ngay lập tức. Thậm chí hắn bắt đầu thấy giận dữ vì mọi chuyện xảy ra quá nhanh, hắn không thỏa mãn.

Brolin đi vào phòng ngủ mà không gây tiếng động. Gần ra đến hành lang, anh bỗng khựng lại.

Bên phải cửa, một cái tủ màu đen che kín bức tường. Nhưng điều quan trọng hơn là có một tấm gương to, trong đó phản chiếu hình chiếc giường.

Từ nơi anh đứng, Brolin nhìn thấy trong gương hình ảnh cái giường ở hàng đầu, xa hơn hắn phải là phần dưới cái xác của Camelia ở cửa phòng tắm. Nếu ngẩng đầu lên, hung thủ không thể không nhìn thấy cảnh này.

Cái giường và thân thể trần truồng của Camelia. Giống như một cặp vợ chồng bình thường.

Không có vết máu trên giường, cảnh sát đã tìm kiếm bằng đèn Polilight nhưng không phát hiện thấy dấu vết, có nghĩa là hắn không đặt cái xác lên giường.

Brolin đến gần tủ và đẩy nhẹ cánh cửa trượt. Anh tưởng tượng ra hình ảnh cái xác của Camelia trượt trong gương và anh nhìn thấy nhiều ngăn quần áo.

Áo phông, áo buộc chéo vạt, áo pull và…cả một ngăn toàn đồ lót, ngăn này khác hẳn với các ngăn còn lại vì vô cùng lộn xộn. Tất cả quần áo được gấp gọn gàng đặt ngay ngắn trừ quần áo lót và áo ngực chất thành đống. Bản thân việc này không có gì đáng ngạc nhiên cả, không hiếm cảnh tương tự trong tủ của một phụ nữ, thế nhưng có cái gì đó khiến Brolin băn khoăn. Không bỏ găng, anh bắt đầu bình tĩnh sắp xếp từng bộ, chĩa đèn vào từng mảnh vải.

Một ý nghĩ nảy sinh trong anh. Hung thủ cũng đi theo những bước như vậy hắn ngập chìm trong ham muốn và muốn tìm kiếm thêm nhục dục. Rồi hắn phát hiện ra ngăn đồ lót.

Một vết nhỏ xíu hiện ra dưới ánh đèn. Rồi vết thứ hai trên cùng một chiếc quần lót. Cuối cùng, Brolin thấy một sợi lông dính vào một cái móc của áo ngực.

Hung thủ đã cọ thứ đồ lót này vào chỗ kín của hắn. Hắn đã trải nó lên giường hoặc dưới nền nhà và thủ dâm. Và trong trạng thái quá tự mãn và tự tin, hắn đã quên mất chi tiết này.
 

hoahongden12

Active Member

Camelia từng có nguyện vọng được hỏa thiêu và rải tro trên sông Columbia. Lễ hỏa thiêu diễn ra vào thứ Năm, ngày mười bốn tháng mười, với sự có mặt của khoảng hai chục người, trong đó có Juliette và Brolin. Vài nhà báo khát nước mắt và sự vô liêm sỉ cố tới dự buổi lễ nhưng bị người thân của người quá cố đuổi khéo. Chính ở đấy, Juliette nhìn thấy Anthony Desaux. Anh mặc một bộ com lê đen, rất lịch sự may kiểu Pháp. Chắc hẳn của hãng Yves Saint – Laurent, và cài một bông hoa hồng ở lỗ khuyết khiến cô xúc động. Khi quan tài biến mất trên băng chuyền về phía lò lửa, anh ta lại gần Juliette và đặt nhẹ bàn tay vào dưới khuỷu tay cô.

- Juliette thân mến, nếu tôi có thể giúp gì được thì cô đừng ngại, cô biết tìm tôi ở đâu rồi chứ.

Lạ thay, cô không cảm thấy có bất cứ ẩn ý nào trong ngữ điệu cũng như trong ánh mắt anh ta, cô chỉ thấy lòng chân thành. Camelia đã kể với cô về anh bạn người Pháp như một kẻ quyến rũ không biết mệt mỏi, nhưng ở thời khắc này, tình cảm đã vượt lên trên bản chất của anh ta.

Cô cảm ơn, còn Brolin bắt tay nhà triệu phú.

Một lát sau, Juliette đi nhận tro, Brolin tranh thủ ra ngoài hít thở không khí. Cơn thèm thuốc lá dầy vò anh, khiến anh bồn chồn, mặc dù anh không động đến một điếu ung thư nào từ hơn một năm nay.

Các nhà báo đã có thứ mà họ cần, hoặc cuối cùng cũng bày tỏ thái độ tôn trọng tối thiểu, vì Brolin không thấy ai cả, trừ khi họ đã học được tính kín đáo. Thế nhưng anh để ý thấy một chiếc Mercury Marquis tới đỗ ngay đối diện. Anh dễ dàng nhận ra hai người vừa bước khỏi xe vừa vuốt phẳng bộ quần áo của họ. Chưởng lý Gleith và trợ lý tương lai Bentley Cotland.

- Thanh tra Brolin, Robert Gleith gọi. (Ông ta chìa tay cho anh, còn người kia nắm chặt cánh tay anh.) Tôi muốn nói chuyện với anh. Cuộc điều tra tiến triển thế nào?

Liệu có thật là ông ta quan tâm đến cuộc điều tra không? Hay Bentley Cotland đã than phiền về việc không được để quý mến lắm? Dù anh ta có tỏ ra dễ chịu hơn trong những ngày gần đây, nhưng với anh ta, không bao giờ có thể hiểu rõ được. Biết vừa đấm vừa xoa, đúng là một chính trị gia! Gleith không bao giờ đi đâu mà không có mục đích. Từ trước tới giờ, đại úy Chamberlin luôn là người trung gian, giờ đây viên chưởng lý lại muốn gõ cánh cửa cuối cùng, nơi diễn ra công việc cụ thể.

- Chúng tôi có vài hướng làm việc, Brolin đáp mà không muốn đi sâu vào cụ thể.

- Hướng làm việc hay hướng đưa tới một kẻ tình nghi? Ngài chưởng lý đi xa hơn và mời Brolin đi dọc theo hàng hoa nhài mùa đông.

- Đây không phải là một vụ giết người quen thuộc thưa ông, chuyện không đơn giản, chúng tôi cần thời gian…

Họ bước đi chậm rãi, anh thanh niên trẻ đi giữa một bên là Gleith, một bên là Cotland và anh thích thú với điều này. Hai người đó tạo thành một gọng kìm thứ bậc trong những bộ comle trị giá hơn 2000 đô la.

Họ xâm chiếm không gian và chỉ ra ai là người dẫn lối. Không khôn khéo lắm, nhưng đa phần có hiệu quả hăm dọa người đối thoại!

Gleith đặt một bàn tay lên vai anh thanh tra.

Người ta thu hẹp không gian và nắm đấm để tăng thêm sức mạnh cho cảm giác kiểm soát. Ta bao quanh anh, ta xâm phạm sự toàn vẹn cơ thể anh, ta ra lệnh cho anh phải làm gì và anh phải làm theo, nếu không ta thu nhỏ mắt lưới và vắt anh như vắt một quả chanh tầm thường.

- Tôi hiểu, ngài chưởng lý đáp giọng trịnh trọng. Nhưng anh phải gánh áp lực một mình, thông báo rộng rãi của đại úy Chemberlin sẽ gây hậu quả nặng nề nếu chúng ta không tìm thấy một kẻ tình nghi để đưa ra trước công luận.

Lại nói về vụ giăng bẫy đó. Mặc dù nó giúp phát hiện ra mẩu thuốc lá để đối chiếu ADN, nhưng thất bại cay đắng của nó sẽ còn bao phủ lên sự nghiệp của Brolin trong một thời gian dài.

- Tôi vừa gặp ông thị trưởng, Gleith nói thêm. Ông ấy không hài lòng vì các kết quả chậm trễ. Hãy nghe tôi, đó là một người luôn đối diện với luật kết quả tức thì, ông ý phải làm hài lòng cử tri và đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh còn anh, anh không tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ đó.

Ngài chưởng lý dừng lại và đứng đối diện với Brolin, Bentley cũng làm như vậy sau lưng anh, thật không tế nhị chút nào, thông điệp đã rõ ràng.

- Đừng nhầm lẫn, không có gì mang tính cá nhân cả, nhưng tôi nghĩ anh còn quá trẻ đối với cuộc điều tra này. Nếu là đại úy Chamberlin, tôi sẽ chọn một người già dặn, có kinh nghiệm. Nhưng đại úy rất quý anh, và việc anh được đào tạo ở FBI dường như gây được ấn tượng mạnh với nhiều người, cả các kết quả trước đây của anh nữa.

Mắt ông ta nhìn chằm chằm vào mắt Brolin, còn anh thanh tra chống đỡ ánh mắt đó một cách không ngạo nghễ mà kiên định.

- Và Bentley nghĩ rằng anh đủ khả năng chỉ đạo cuộc điều tra đến cùng, vì thế tôi nghiêng về lựa chọn này, nhưng đừng mắc sai lầm, anh có thể phá hỏng sự nghiệp của mình với một vụ như thế này. Cho đến nay, các phương tiện thông tin đại chúng vẫn bình tĩnh, nhưng đến vụ giết người thứ ba, chúng ta sẽ được lên trang nhất của các kênh trung ương.

Tất nhiên rồi, Bentley có mặt ở đây không chỉ để lấy thêm kinh nghiệm, mà anh ta còn là tai mắt của ngài trưởng lý. Sao họ không chú ý hơn nhỉ. Đây thậm chí là chuyện đương nhiên, một anh chàng trẻ tuổi vừa mới ra trường lại được đặt vào văn phòng của chưởng lý, lại còn được ưu ái, phải có cái gì đó đằng sau chuyện này. Gleith muốn biết hoạt động nội bộ của bên cảnh sát, ông ta muốn lập những hồ sơ con của riêng mình, theo kiểu John Edgar Hoover thu nhỏ. Để biết đâu là người ủng hộ ông ta và những kẻ cần hạ gục vào một thời điểm nào đó. Có tất cả các phương tiện cần thiết để gây sức ép phòng khi… chính trị gia xấu xa. Ngạc nhiên hơn nữa là việc Bentley ủng hộ anh, không giống bình thường chút nào.

Đến lượt mình, Brolin đặt một bàn tay lên vaingười đối diện mạo hiểm đùa với vũ khí của người đang đối thoại với anh.

- Tôi biết việc của mình, mặc dù tôi còn quá trẻ như ông nói. Chúng tôi đang đối mặt với một cặp đôi đáng sợ, chúng rất lanh lẹ và quỷ quyệt, vì thế đừng kỳ vọng ở tôi những phép màu. Chúng tôi là một nhóm làm việc liên tục, nhưng chừng nào đối thủ của chúng tôi chưa phạm sai lầm, thì chừng đó chúng tôi không có bất cứ hướng cụ thể nào. Do vậy, chính tôi là người phải tìm ra hướng đi nhờ vào sự đồng cảm.

Anh cố tình dùng thuật ngữ, với hy vọng rằng Gleith sẽ không hiểu ý nghĩa chính xác trong hoàn cảnh này và sẽ bị đặt vào thế yếu, khi đó Brolin sẽ lấy lại thế chủ động.

- Tôi không phê phán các đồng nghiệp của mình, nhưng hiện tại tôi là người duy nhất có thể chỉ đạo cuộc điều tra này đến cùng. Hãy tin ở tôi.

Brolin thấy hàm Gleith co rúm lại, ông ta rất bực bội khi người khác không nghe theo ý mình.

- Anh cứ làm đi, ông ta xẵng giọng. Nhưng tôi cần kết quả cụ thể. Anh có thời gian cho đến sáng thứ hai tuần tới. Sau đó, tôi sẽ yêu cầu FBI hỗ trợ.

Brolin sững người, anh chỉ còn bốn ngày.

Bốn ngày để ngăn chặn một vụ giết người mới.

Trước khi các cựu đồng nghiệp của anh bắt tay vào việc còn anh thất bại hoàn toàn.

Gleith nói thêm bằng giọng đanh thép và với nụ cười của động vật ăn thịt:

- Hãy nhớ lại những lời của Andy Warhol và làm thế nào để giây phút vinh quang của anh không phải là đã qua…

Một nụ cười mỉa mai nở trên môi của Brolin

- Tôi tin chắc rằng, một người như ông, phải biết tướng De Gaulle, anh nhận xét. Ông có biết ông ấy đã nói gì không? Rằng “Vinh quang chỉ đến với những người luôn mơ tới nó”. Mỗi người đều có giấc mơ của mình, thưa chưởng lý Gleith.

Anh nghe thấy tiếng bấm máy ảnh ở đằng xa. Báo chí không bao giờ ở xa khi có một vụ giết người.

Chỉ còn bốn ngày.
 

hoahongden12

Active Member

Phòng thí nghiệm của cảnh sát khoa học Portland làm việc liên tục. Lúc nhiều việc, lúc ít việc, thời kỳ cao điểm xen kẽ với những giai đoạn bình lặng hơn. Sáng thứ năm này tương ứng với thời kỳ đỉnh điểm của công việc ở mức có thể chịu đựng được.

Khi Joshua Brolin đẩy cánh cửa hành lang trung tâm, anh thấy rất nhiều người mặc áo blouse trắng làm việc đằng sau những vách kính cao của những khu vực khác nhau. Ở khoa đường đạn, ngoài công việc quen thuộc là so sánh vũ khí và đạn, người ta còn xác định đường đạn và khoảng cách bắn trên quần áo của các nạn nhân bị bắn vài ngày trước ở bãi giữ xe ở một quán trọ ven đường. Xa hơn một chút, ở phòng cháy nổ, hai người đàn ông và một người phụ nữ đang tìm hiểu nguồn gốc xảy ra vụ cháy nổ trong một câu lạc bộ đêm bằng cách phân tích các mẫu phẩm nhờ máy đo phổ hồng ngoại và sắc ký lỏng.

Brolin đi qua một loạt các phòng thí nghiệm khác, phòng sinh học, và đi tiếp đến khu vực văn phòng. Carl DiMestro đợi anh ở đây từ khi nhận được cú điện thoại của anh vào buổi sáng. Khi anh thanh tra bước vào, DiMestro, người phụ trách phòng sinh học và là phó giám đốc phòng thí nghiệm, đứng dậy đón anh.

- Tinh thần thế nào? DiMestro hỏi vì biết rằng Brolin vừa tham dự lễ hỏa thiêu.

- Không tồi hơn mọi khi. Anh có tìm thấy gì không? Anh không thể ngăn mình hỏi ngay, bỏ qua mọi hình thức mở đầu khác.

Anh biết thứ mà hôm qua anh phát hiện ra ở nhà Camelia quan trọng đến thế nào đối với phần tiếp theo của cuộc điều tra.

- Anh ngồi xuống đi, cà phê hay trà?

Brolin lắc đầu, anh muốn nghe lời nhận xét ngay lập tức.

- Vâng, sau cuộc điện thoại tối qua của anh, Craig đã tới và chải kỹ càng toàn bộ đồ lót. Từng milimet, Josh, theo anh liệu nạn nhân có nuôi chó, chó sói, cáo cát hay cáo không?

- Gì cơ? Không, tôi không nghĩ thế. Có gì...

- Nếu không thì rất kỳ lạ, không có lông động vật trong nhà. Không đâu có, trừ trên đồ lót.

Brolin nhíu mày.

- Phải, rất đáng ngạc nhiên, DiMestro nói tiếp. Craig đã lấy ra một sợi lông dài, sợi lông mà anh đã tìm thấy, và anh ấy tìm được thêm vài sợi lông ngắn, ba hoặc bốn sợi trong chiếc quần lót ren. Sợi lông dài là của người. Mặt cắt ovale và hình dạng xoăn cho thấy đây là lông nách hoặc lông mu của một người da trắng. Quả thật, nó không có lõi liền liên tục của người châu Á, và các hạt sắc tố không dày đặc bằng mà phân bố đều hơn lông của người da đen. Còn các sợi lông mảnh và ngắn là của động vật, sau khi phân tích rất lâu, tôi có thể khẳng định với anh rằng chúng thuộc về loài chó. Cách sắp đặt các tế bào biểu bì và hình dạng của biểu bì rất đặc trưng đối với loài này. Nhưng tôi chưa kịp bắt tay vào so sánh kỹ với cơ sở khoa học của chúng ta theo từng giống. Chắc chắn là một con chó, nhưng chính xác là giống nào thì chúng ta còn phải mất nhiều thời gian.

Brolin ngồi không yên trên ghế bành, gây nên tiếng kêu ken két của kim loại. Tại sao lông chó lại có thể rơi vào đây? Lời giải thích duy nhất mà anh nghĩ tới là chính hung thủ đã mang chúng tới. Quần áo hắn dính lông, và khi hắn cọ sát vào đồ lót, một vài sợi lông đã rơi vào một chiếc quần lót.

- Hắn ta có một con chó sao? Anh hỏi.

- Điều này có vẻ hợp logic nhất. Một con chó cỡ vừa, căn cứ vào độ dài của lông. Nhưng chưa phải đã hết. Các sợi lông có dính một chất lạ. Không phải một chút, mà giống như được bao phủ toàn bộ bằng chất đó. Nhờ máy quét hiển vi điện tử và sắc ký khí, chúng tôi đã tìm ra chất này. Có xà phòng chứa asen và kali cacbonat. Tức là những chất không hay gặp.

Cuối cùng, Brolin cũng có được một yếu tố cụ thể. Hung thủ có thể đã vuốt ve con chó của hắn và bôi các chất này lên lông của nó, hay con chó đi vào một nơi chuyên sử dụng hai hỗn hợp này? Có rất nhiều khả năng, bắt đầu từ một sự trùng hợp không may có thể không đi tới đâu cả, nhưng đây là hướng đi duy nhất có thể khai thác được.

Brolin trở về với thời điểm hiện tại.

- Với sợi lông người, anh có thể lập mẫu ghen không? Anh hỏi.

- Không, không có chân lông. Nhưng tôi có thể phân tích bằng cách kích hoạt các neutron. Các neutron xung đột với nguyên tử của các yếu tố rất nhỏ khác nhau tạo nên sợi lông, và chúng trở thành phóng xạ. Chỉ cần đo các tia gamma tạo thành từ đó, người ta sẽ có thể tính toán được chính xác dấu vết nhỏ nhất của các thành phần. Chính xác tới phần tỉ gam, tới mười bốn yếu tố khác nhau. Tức là nếu anh đưa cho tôi lông của một kẻ tình nghi, tôi chỉ việc so sánh hai “hồ sơ phóng xạ” là biết liệu hai sợi lông có phải cùng một người hay không.

- Có đáng tin cậy không?

- Kém hơn ADN, nhưng xác suất sai là khoảng một phần triệu, không tồi đâu.

Brolin đứng dậy và rút từ túi áo vest da ra một túi nhựa chứa vài sợi tóc.

- Có thể so sánh với một sợi tóc được không? Anh hỏi.

- Không vấn đề gì. Anh lấy đâu ra thế?

Brolin đặt chiếc túi lên bàn của Carl

- Một cảnh sát cừ khôi không bao giờ tiết lộ hết các nguồn của mình.

Người phụ trách phòng sinh học nhún vai.

- Đấy là việc của anh. Tôi sẽ làm trong thời gian nhanh nhất có thể, nhưng hiện tại, có rất nhiều việc khẩn cấp. Chúng tôi luôn luôn thiếu người.

- Tôi biết, ở đâu cũng thế. Dù sao cũng cám ơn anh.

- Nói nhỏ nhé, có lẽ chỉ là một sợi lông mu của nạn nhân, đúng không?

Brolin lắc đầu dứt khoát.

- Tôi không nghĩ thế. Không thể nào có trong đồ lót sạch, không phải trong hoàn cảnh này, mọi thứ hoàn toàn trùng khớp. Tôi bảo đảm với anh đấy, Carl ạ, hung thủ đã dùng đồ lót. Hắn không thể ngăn mình làm điều đó. Và những sợi lông chó khẳng định điều này. Camelia không nuôi động vật. Chúng ta đang có một thứ, chúng ta phải khai thác đến cùng.

Carl nhún vai rồi kết luận:

- Có lẽ anh hy vọng có được những thông tin tốt nhất, nhưng rất tiếc, chúng tôi chỉ làm việc chúng tôi có thể làm.

Brolin mở hé cửa.

- Thế đã là nhiều rồi, Carl. Mà lại chỉ trong vài giờ đồng hồ. Cám ơn anh lần nữa.

Những sợi lông chó dính đầy xà phòng chứa asen và kali cacbonat. Đây là một xuất phát điểm tốt. Brolin chóng mặt khi phải nghĩ tới cả chặng đường dài phải vượt qua để đến đích.

Anh đi ra sau khi đã cảm ơn Carl DiMertro thêm một lần nữa. Quầng mắt Carl chảy xuống như một làn sóng đen trên bãi biển Florida.

Phải làm thật nhanh, rất nhanh.
 

hoahongden12

Active Member

Mặt dù mặt trời tỏa sáng trên bầu trời quang đãng, nhưng đầu giờ chiều này, cái lạnh vẫn thấu xương. Một làn hơi khói vẫn tỏa ra từ miệng Juliette khi cô thở, rồi nó xoắn lấy gió và tan vào không khí.

Cô đã chạy xe về phía đông, về những vùng hoang dại của bang Oregon cho tới khi đến những địa hình khúc khuỷu, nơi gọi là thành phố chỉ là một cộng đồng khoảng mười ngôi nhà và vẫn còn những cánh rừng rậm và rộng tới mức những con vật chưa từng biết tới sự tồn tại của con người. Khi rời đường lớn để tiến vào con đường xóc, cô đã đỗ lại để chờ chiếc xe Ford của hai cảnh sát tới. Ở đó cô thỏa thuận để có vài giờ riêng tư, không thể xảy ra chuyện gì với cô ở nơi hẻo lánh này cả, và họ sẽ chờ cô ở đầu con đường duy nhất dẫn tới mỏm đá. Mặc dù không thích nhưng vì rất thông cảm, hai cảnh sát đã nhượng bộ.

Giờ đây, đứng trên một tảng đá, Juliette cúi xuống khoảng trống và ngắm nhìn dải lụa đen của dòng Columbia, ở cách cô hai mươi mét bên dưới. Con sông chảy hiền hòa qua bang Oregon, uốn lượn giữa những cánh rừng bạt ngàn, tiến sâu vào các vách đá dựng đứng rợp bóng cây để cuối cùng đến với thế giới văn minh, nơi các con tàu chở rất nhiều hàng hóa về phía đại dương.

Juliette cầm trên tay một chiếc hộp đen, cô cầm những gì còn sót lại của người bạn thân Camelia. Camelia không còn người thân từ nhiều năm nay, ngoài rất ít người thân trong gia đình ở xa, trên bờ biển phía Đông và không biết đến cô, họ có niềm tin tôn giáo sâu sắc, kiểu niềm tin muốn xua đuổi Camelia vì cách sống của cô chứ không ca tụng tình yêu và sự khoan dung. Steven, chồng cũ của Camelia, cũng có mặt trong buổi lễ hỏa thiêu, nhưng lọ tro được giao lại cho Juliette.

Trước đây, Camelia thường đùa vui về cái chết của chính mình, về sự tự do này. Cô nói rằng tro của mình sẽ được gió cuốn đi và cuối cùng cô cũng được bay lên. Cô sẽ biến thành hàng ngàn hạt bụi nhỏ, được nhìn thế giới từ trên trời, rồi sau đó rơi xuống khắp nơi cùng một lúc. Cô sẽ ở trong các dòng sông, trên cây, trong đại dương và có thể vương lại đôi chút trong cơn gió mạnh Đại Tây Dương nếu sự may mắn và thiên nhiên giúp đỡ.

Khuôn mặt người bạn thân hiện lên trên dòng Columbia, Juliette nhắm mắt lại. Gió thổi vào tai cô giai điệu thời gian đang trôi đi.

Cô leo lên mỏm đá bên phải. Cô biết mình đang ở bên bờ của một vách đá dựng đứng, khoảng trống đe dọa hút cô xuống chỉ cách chân cô vài centimet, nhưng cô không sợ.

Khi mí mắt cô mở ra, cô chìa cái hộp ra trên miệng vực, rồi mở nắp.

- Em yêu chị...

Những hạt tro đầu tiên chầm chậm bay lên, như thể chính gió không muốn mang chúng đi, rồi một luồng xoáy bụi bốc lên từ chiếc hộp, dường như cố ý vẽ nên những hình thù kỳ lạ, bay lên rồi lại rơi xuống trước cặp mắt ngạc nhiên của Juliette. Vũ điệu của tro tạo thành ký tự bí ẩn trong không khí, rồi biến mất gần như ngay lập tức.

Đó chính là những lời từ biệt mà Camelia gửi tới cô bạn thân nhất của mình.

Những lời cuối cùng.

Juliette vẫn ngồi trên mỏm đá hơn một giờ nữa. Cô nghĩ tới Camelia, nhưng cũng nghĩ tới chính mình, tới chuyện xảy ra với mình năm ngoái. Chỉ một chút xíu nữa thôi, là Camelia đã phải rải tro của cô bạn trước khi tro mình được rải ở đây. Liệu điều đó có thay đổi được gì không? Nếu chính cô, Juliette, chết vào ngày hai mươi chín tháng chín năm ngoái, thì hôm nay liệu Camelia có còn sống không?

Juliette lau nước mắt từ mặt trong của tay áo.

Cô căm thù kẻ đã làm việc này, kẻ giết người đó. Kẻ điên rồ đó.

Giọng nói của hắn ám ảnh cô, thứ âm sắc vô tính, đọc lên các mệnh lệnh trong điện thoại đó khiến cô phát điên dại. Brolin đã cho kiểm tra đường dây, nhờ tới sự trợ giúp của Pacific Bell để cố tìm nguồn gốc cuộc gọi, nhưng đó hiển nhiên là một cabin điện thoại công cộng, cách xa thành phố, vì thế cách xa mọi nhân chứng.

Chúng có hai người, Joshua đã nói với cô như thế. Kẻ giết người và Quạ, đấy là cách anh gọi chúng. Và chúng dùng thần khúc của Dante để giết người, ít nhất là để làm các vụ giết người của chúng trở nên nổi tiếng hơn nhờ một động cơ bí hiểm. Chúng trích dẫn những đoạn trong “Địa ngục”. Tại sao chúng lại chọn phần này? Mục đích cuối cùng là gì? Không phải vô tình, juliette tin chắc như vậy. Một tối nào đó, khi hai người nói với nhau về chuyện này, Joshua đã khuyên cô không nên nghĩ tới nó vì chỉ đầu óc Quạ mới có thể làm sáng tỏ ý nghĩa cũng như mục đích của đoạn trích dẫn ấy. Có vẻ mờ mịt và chỉ mình Quạ hiểu được, hắn tự giam mình trong một kiểu hoang tưởng cuồng ám, ở đó hắn tự xây nên một vũ trụ nhỏ nhờ những cuốn sách “thánh”. Nhưng Juliette không chắc chắn lắm. Không phải là không thể tìm ra ý nghĩa của những trích đoạn đó, bản thân việc lựa chọn “địa ngục” đã là một thông điệp.

Cô nhìn đồng hồ đeo tay. Kim đồng hồ chỉ mười sáu giờ.

Những kẻ này phải trả giá. Chúng không có quyền tấn công Camelia, chị ấy chẳng làm gì chúng cả.

Juliette nắm chặt tay khiến các khớp xương kêu răng rắc. Cô cảm thấy cơn tức giận đang dâng lên, đó là mong muốn trả thù. Giết chúng ư? Không, tất nhiên rồi. Nhưng phải làm chúng khốn khổ! Hoặc khiến chúng phải ngồi chết dí mãi mãi trong phòng giam ẩm ướt.

Thế nhưng, liệu cô có thể làm được gì?

Phần việc của mình!

Dường như chúng muốn tôn thờ Leland, bắt chước hắn, cũng khéo léo như hắn, chính vì chúng có mối liên hệ với nhau bằng cách nào đó. Chúng quen biết nhau.

Nhưng cô không biết gì về Leland, không một chút riêng tư nào.

Đột nhiên, Juliette cảm thấy hai tay mình lạnh cóng, cô lấy lại được cảm giác của cơ thể mình và ký ức về nỗi kinh hoàng lại bật lên từ trạng thái mơ hồ của trí nhớ lan tới tận xương thịt cô.

Có chứ. Cô có thể tiếp cận tới cuộc sống riêng tư của Leland. Cô luôn biết bằng cách nào, nhưng chưa bao giờ dám đối mặt với lũ quỷ, vẫn còn quá sớm.

Nhưng giờ thì không còn sớm nữa, cô tự nhủ và đứng dậy đi ra xe của mình.

Cuộc chiến đã bắt đầu.
 

hoahongden12

Active Member

Vẫn chưa tới mười ba giờ khi Brolin bước qua cửa của Powell’s và đi vào thế giới tĩnh lặng của kiến thức. Powell’s là một hiệu sách có thể khiến chính Alexandre Đại đế phải tái mặt vì sự phong phú và đa dạng của nó. Hiệu sách quá rộng và các giá sách sắp xếp quá ngoắt ngoéo làm cho người ta rất dễ bị lạc, đến mức một số sinh viên ở Portland đặt cho nó biệt hiệu “Thành phố sách”.

Brolin chào một nhân viên đứng sau quầy hàng nhỏ nổi bật với một dấu hỏi khổng lồ màu trắng trên nền đen, và chỉ sau vài giây, anh tìm thấy khu vực bán sách lý - hóa. Anh bắt đầu dò tìm, đọc mục lục của các cuốn sách mà tựa đề có vẻ mang tính bao quát. Rồi anh lọc ra, xếp thành chồng một số cuốn mà anh nghĩ có thể nhặt nhạnh được vài thông tin.

Anh phải tìm ra xà phòng chứa asen và kali cacbonat gắn với cái gì. Carl DiMestro đã vất vả tách các yếu tố này từ những sợi lông động vật được tìm thấy trên một thứ đồ lót, tất nhiên đây không phải là một chiến công, nhưng việc chỉ dẫn này tồn tại là một phép màu. Hay đúng hơn, việc họ tìm được chúng là một phép màu. Brolin lại nghĩ tới bản mô tả tâm lý và nhận dạng và tự chúc mừng mình về chiến thắng nhỏ ấy. Nó xứng đáng được truyền tới tai các thầy cô giáo của anh ở Quantico, đây sẽ là một ví dụ tuyệt vời về đóng góp của mô tả nhân dạng vào cuộc điều tra và về các kết quả ngay lập tức của nó. Với điều kiện nó nhanh chóng dẫn tới việc bắt được hung thủ.

Xà phòng chứa asen và kali cacbonat.

Hướng đi này không chắc chắn, nhưng chỉ cần một chút may mắn là nó có thể đem lại kết quả. Nếu Brolin tìm ra nơi và mục đích sử dụng các sản phẩm này, xác định loại nhà máy hay nghề nghiệp sử dụng chúng, hoặc ít nhất là chúng có thể được sử dụng vào việc gì, thì sau đó anh sẽ có hy vọng chạm tới kẻ giết người. Chưa có gì chắc chắn cả, tất cả mới chỉ là suy đoán. Brolin xuất phát từ nguyên tắc là kẻ giết người có một con chó, và xung quanh nơi ở của hắn có một khu công nghiệp hoặc ít nhất là một xưởng có sử dụng xà phòng và cacbonat. Con chó không cần đi quá xa và lông của nó đã có thể dính đầy các chất này.

Vậy mà Carl DiMestro nói rằng các sợi lông ngấm đẫm các thành phần đó. Có thể con chó đã lăn vào một vũng nước, hoặc nghề của kẻ giết người khiến hắn phải tiếp xúc với các chất này. Sau đó hắn vuốt ve con chó, đặt bánh xà phòng chứa asen và kali cacbonat lên trên lông. Khi ấy, chỉ cần có vài sợi lông dính vào quần áo của kẻ giết người, thế là sự việc diễn ra.

Tất cả chỉ dựa trên xác suất, phán đoán.

Nhưng đây là tất cả những gì anh có, hơn nữa, đây là lời giải thích lô gic nhất.

Sau một giờ nghiên cứu, Brolin đã lấy ra đặt vào khoảng ba chục cuốn sách. Powell’s là một cửa hàng bán sách và người ta không đến đây để nghiên cứu, vì thế chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một nhân viên lại gần anh, vẻ soi mói.

- Tôi có thể giúp gì được anh?

Brolin lắc đầu và lục túi trong của áo vest, rút ra tấm biển hiệu thanh tra.

- Trừ khi anh biết xà phòng chứa asen và kali cacbonat dùng để làm gì…

Anh nhân viên chừng ba mươi tuổi, đeo cặp kính to gọng đỏ, mái tóc dài vén qua tai, nhăn mặt tỏ ý “để tôi suy nghĩ một chút” hoặc gần như thế.

- Kali cacbonat được dùng để sản xuất một số loại thủy tinh và hình như cả nước hoa nữa. Tôi đã xem trên một phim tài liệu cách đây vài hôm. Thế thôi. Còn về xà phòng chứa asen, tôi chẳng biết gì cả. Để phục vụ điều tra ư?

- Hừmmm…Anh nói là để sản xuất thủy tinh?

- Và nước hoa nữa, hình như thế.

- Anh có sách nào nói về sản xuất thủy tinh không?

- Ồ có, nhất định là có.

Brolin sửng sốt khi thấy người bán hàng dễ dàng định hướng giữa vô vàn sách tham khảo trong cửa hàng. Chẳng cần mất nhiều thời gian, người bán hàng chìa cho viên thanh tra một cuốn sách nhan đề Sản xuất thủy tinh, từ thợ thổi đến công nghiệp hóa.

- Đây. Tôi sẽ hỏi đồng nghiệp của tôi về xà phòng, anh ấy biết khá nhiều về hóa học.

Brolin cảm ơn và bắt tay vào đọc cuốn sách dày, bắt đầu từ phần chỉ dẫn. Anh giở nhiều trang, nhưng không có gì đáng chú ý cả, có rất nhiều dữ liệu, vài bức ảnh và hình vẽ nhiều màu.

Anh nhân viên bán hàng đeo kính gọng đỏ trở lại sau vài phút với tách cà phê nóng hổi trên tay.

- Anh uống đi, nó rất tốt cho những lúc nghiên cứu, anh ta nói.

Sự quan tâm khiến Brolin cảm động, anh chợt thoát được khỏi bản chất đa nghi và ít nói của mình.

- Cảm ơn, anh tốt quá. Cuốn sách này quả là ác mộng! Tám trăm trang sách chữ nhỏ, liệu có ai mua nó không? Anh vừa nhấp cốc cà phê vừa đùa.

- Anh yên tâm đi, chúng tôi dùng cuốn sách này để kê một cái bàn. Tôi đã hỏi một đồng nghiệp về xà phòng chứa asen. Anh ấy không biết nhiều công dụng, nhưng đây là một chất sát khuẩn. Kali cacbonat cũng có thể được dùng làm chất bảo quản, nhất là đối với các xác ướp, anh ấy nói như vậy. Cần phải nói thêm rằng anh ấy say mê lịch sử cổ đại, đặc biệt là Ai Cập thời các pharaon. Kali cacbonat có thể được dùng để giúp xác ướp không bị khô. Tóm lại, đây là một trong các chất cần thiết.

- Cho xác ướp?

Nơi nào ở Portland người ta làm việc với cả các xác ướp nhỉ? Theo như anh biết, không bảo tàng nào trong thành phố có xác ướp. Và tại sao lại dùng cả chất diệt khuẩn như xà phòng chứa asen? Loại nhà máy nào có thể kết hợp cả hai? Để thu được gì?

Brolin xem xét một số lượng lớn nghề nghiệp, nhưng không tìm ra nghề nào có thể sử dụng các sản phẩm loại này. Nhưng làm sao mà biết được? Nhiều cơ sở chuyên nghiệp có “bí quyết” riêng của họ, cách pha trộn riêng…

Một chất sát khuẩn và một chất chống khô.

Và…

Bỗng đầu óc Brolin sáng lên. Anh so sánh các dữ liệu và một giả thiết chợt hình thành sau khi đối chiếu.

Kẻ giết người đã cắt tay chân của các nạn nhân rất cẩn thận, tỏ ra có kiến thức chuẩn xác về giải phẫu học. Hắn đặc biệt chú ý đến da và xương, bỏ qua các tĩnh mạch, cơ và toàn bộ phần thịt.

Và các vệt phấn xung quanh chân của Elizabeth Stinger. Hắn không dùng phấn để vẽ một ngôi sao năm cánh hay bất cứ thứ gì khác, mà để đo! Hắn lấy các số đo của cô gái và dùng phấn để đánh dấu phần da!

Phải, đúng như thế. Da, xương, các số đo và các chất sát khuẩn, kèm theo một chất chống khô, chỉ có một cách lý giải.

- Không được gì sao? Nhân viên bán hàng lo lắng. Anh uống thêm cà phê nhé?

Brolin cảm thấy căn phòng quay tròn quanh anh ngày càng nhanh theo mức độ kinh hoàng. Giờ thì anh đã biết.

Kẻ giết người không mang tay chân nạn nhân về làm chiến lợi phẩm.

Còn tàn bạo hơn nhiều.

Toàn bộ người anh bị chao đảo bởi một cơn rùng mình vì kinh tởm.
 

hoahongden12

Active Member

Trước hết, cô phải thoát khỏi hai vị thần hộ mệnh của mình.

Juliette không hình dung nổi việc mà cô sắp làm khi lúc nào cũng có hai cảnh sát theo sát gót. Họ ở đây để bảo vệ cô, nhưng cô chẳng có gì để sợ cả. Kẻ giết người đã chần chừ, hắn đã thú nhận với cô qua điện thoại, nhưng hắn lại chọn Camelia. Hắn không muốn tấn công cô. Leland thử làm việc đó, và hắn phải trả giá bằng sự sống. Giờ đây, nếu đúng là có một mối nguy hiểm chết người bay lượn trên đầu cô, thì Juliette thích đối mặt với nó. Nghĩ thật kỹ, thậm chí cô muốn thách thức nó.

Đó là cách duy nhất để kết thúc mọi chuyện.

Nếu Quạ và kẻ giết người biến mất, chúng sẽ đem theo cả hồn ma của Leland và mọi nỗi khiếp sợ của cô.

Cô ngồi trước vô lăng chiếc Coccinelle nhưng không xoay chìa khóa khởi động. Thay vì làm việc đó, cô ra khỏi xe và đóng cửa, rồi đi về phía rừng. Nếu đi nhanh, cô sẽ tới đường sau mười phút. Theo con đường vòng mà cô đã chuẩn bị, cô sẽ cách xa chiếc xe Ford và hai người bảo vệ cô. Đủ xa để thử vẫy xe đi nhờ.

Cô bị trầy da tay khi đi qua các bụi cây gai, nhưng ra được đến đường khá nhanh bằng cách đi tắt, Juliette bắt đầu đi bộ về phía Tây. Cô không muốn hai cảnh sát nhận ra cô ở xa nếu một trong hai người quyết định làm chân hết cóng trên lớp nhựa đường. Phải đi thật nhanh, cô đã nói với họ là muốn ở một mình trong hai giờ đồng hồ, như vậy là cô chỉ còn nửa giờ đồng hồ nữa. Trong tình hình này, cô đoán rằng họ sẽ để cô tự do thêm một lúc nữa, rồi sẽ lo lắng và đi tìm cô. Cô rảo bước.

Mười lăm phút sau, một chiếc xe tải nhỏ đi từ phía sau tới, Juliette giơ ngón tay cái ra. Người lái xe khoảng bốn mươi tuổi, bụng phệ, tên là Duane, vui vẻ cho cô lên xe đi nhờ tới đường liên bang số 84 về phía Portland. Cô phải chịu đựng những lời ba hoa của ông ta và hướng câu chuyện đến những chủ đề trung tính hơn mỗi khi ông ta sa đà vào những lời bóng gió dâm dục. Nhưng Duane biết kiềm chế cho tới khi để cô xuống xe ở bên dưới đồi West Hills. Từ đây, Juliette leo nhanh tới nhà Camelia và lại một lần nữa cám ơn chị bạn vì đã đánh cho cô chiếc chìa khóa riêng. Cô ngồi vào chiếc BMW của Camelia và đi xuống phố 32, cố gắng đi thật chậm. Nhất định không được báo cảnh sát. Ý nghĩ này khiến cô mỉm cười. Cô xử sự như một kẻ chạy trốn đang bị tất cả các cảnh sát trưởng trong bang đuổi theo sau, nhưng xét cho cùng thì cô không làm gì xấu cả. Họ không thể buộc cô phải để họ đi theo khắp nơi. Và chỉ mình cô mới tới được nơi mà cô muốn. Cô không thể chấp nhận việc có người đi cùng, điều đang chờ đợi cô quá riêng tư. Chỉ cùng với sự cô đơn, cô mới có thể thực hiện được việc đó, và cô cần tất cả sự kín đáo mà ký ức yêu cầu để làm lộ rõ những nỗi sợ hãi và bí mật sâu kín nhất.

Juliette chạy xe trong im lặng, không mở nhạc, không bật đài. Mùi của Camelia vẫn còn trong khoang xe, mùi nước hoa xạ hương của chị vẫn phảng phất như thể chị đang ngồi ở ghế sau.

Chiếc BMW đi qua Beaverbon và tiếp tục chạy về phía Nam.

Mặt trời lặng lẽ xuống ở đằng xa, kéo theo tấm voan ánh sáng ban ngày cho tới khi những ngôi sao bắt đầu tỏa sáng trong cái lạnh trong suốt của bầu trời. Juliette biết mình đang ở trạng thái giới hạn. Border line như các chuyên gia thường gọi. Một trạng thái lẫn lộn sắp bùng nổ của mệt mỏi, chán chường, kiệt sức về thần kinh và giận dữ. Phán đoán của cô đã nhầm lẫn, đã bị cắt cụt vì lòng thù hận âm thầm khiến cô khó thở. Nhưng Juliette ý thức được điều ấy. Cô biết rằng cần phải làm việc đó. Cô không thể hành động như thế này trong trạng thái bình thường, và giờ đây, khi đã quyết, cô cần phải nuôi dưỡng ngọn lửa hủy hoại này. Từ tàn tro điều tốt đẹp hơn sẽ tái sinh. Một điểm xuất phát mới. Cô chạy xe về phía Nam, về phía ác mộng tồi tệ nhất của cô. Nhưng nếu có thể đối diện với hắn, thì cô tin chắc mình sẽ mãi mãi thoát khỏi tất cả các bóng ma của hắn.

Cô đi qua hồ Oswego và chạy xe thêm hai mươi phút nữa để ra khỏi đường liên bang và rẽ vào những con đường nhỏ hơn. Đến Stafford, cô rẽ vào rừng theo một con đường ít người qua lại. Chiếc BMW tiến sát theo vết xe ít nhiều hằn trên những đám cỏ cao. Lúc này cần bật đèn pha để nhìn cho rõ, bầu trời màu tím và ngọn cây vẫn đủ dày, mặc dù đã là tháng Mười, để phủ lên con đường những cái bóng bí hiểm.

Cô chạy xe trong mười phút trên con đường heo hút đó, rời xa văn minh, rời xa thế giới của những lề thói và giới hạn để tiến vào thế giới của bản năng. Khi cô đi sâu vào rừng, cành cây đập vào kính xe như một ngón tay dài đầy máu.

Rồi ngôi nhà hiện ra như một khuôn mặt đáng sợ trong đêm tối. Những bức tường trắng lạc lõng trong bóng hoàng hôn, bao quanh những ô cửa sổ đen che rèm đầy bụi bặm. Bên cạnh cái chuồng chim rộng đã biến thành vùng đất trung lập của thực vật, giấu bên trong nó vài bộ xương chim. Không ai sống trong ngôi nhà này nữa từ hơn một năm nay.

Leland Beaumont là người cuối cùng sống ở đây. Và Juliette là vị khách cuối cùng.

Chiếc BMW dừng lại trước cửa ga ra. Sau cánh cửa này hẳn vẫn còn chiếc ròng rọc dùng để kéo cô lên khỏi hầm.

Juliette tắt máy nhưng vẫn để đèn pha sáng. Cô mở hộp đựng găng tay, hy vọng tìm thấy một chiếc đèn pin, và mong muốn của cô đã trở thành hiện thực vì trong đó có một chiếc đèn Mag-Lite loại nhỏ.

Bên ngoài, không khí ẩm hơn một cách kỳ lạ so với lúc buổi chiều bên bờ sông Columbia. Động vật sống ban ngày đã im tiếng, đã ẩn náu trong hang ở rừng như thể đêm tối che giấu vài con quái vật gớm ghiếc mà chỉ thú vật mới biết.

Vẫn dưới ánh sáng của ngọn đèn pha thay thế mặt trời, Juliette lại gần ga ra. Vào ga ra bằng cánh cửa nhỏ bên cạnh thì dễ dàng hơn. Cô xoay tay nắm nhưng không ngạc nhiên khi thấy cửa đóng chặt.

Cô nghe nói rằng ngôi nhà không hề mở cửa từ năm ngoái. Sau khi Leland chết, không ai muốn mua ngôi nhà kinh hoàng trong rừng sâu này. Người ta đồn rằng ngay cả bố của Leland cũng không tới đây và tất cả mọi thứ trong nhà vẫn y nguyên. Cảnh sát đã khám xét nhưng khi phát hiện được cái hầm dưới ga ra nơi Leland nhốt các nạn nhân, thì cảnh sát lại chỉ lục soát tài sản của kẻ giết người. Người ta tìm kiếm những cuốn nhật ký, những bí mật về các vụ giết người của hắn, về các động cơ của hắn, nhưng ngôi nhà không cung cấp thêm bí mật nào cả.

Juliette tìm thấy một chiếc búa cậy đinh trong cốp xe, cô không ngạc nhiên vì quá hiểu chị bạn mình, luôn luôn sẵn sàng với mọi chuyện, rồi cô đi vào ga ra.

Ổ khóa bật ra sau một tiếng gãy đục vang to trong rừng.

Hơi thở của Juliette trở nên nặng hơn. Trong vài giây, cô quan sát bìa rừng đang vây quanh cô bằng những cánh tay đầy máu, nhưng không nhìn thấy gì cả. Thế nhưng cô cảm thấy sức nặng của một ánh mắt soi mói ở sau gáy.

Đừng hoang tưởng nữa, con bé đáng thương! Không ai biết mày đang ở đây, và không có linh hồn nào sống trong ngôi nhà tồi tàn trong rừng này! Cô cố động viên mình. Hiệu quả không mấy khả quan.

Sau cánh cửa này là những thời khắc tồi tệ nhất của đời cô. Cô đẩy cửa và bật chiếc đèn pin Mag-Lite.

Bóng tối dày đặc, lối vào nhà giống như quãng đường tới hư vô, một sai lầm của tự nhiên, hút hết những gì lại gần nó. Và Juliette bị nuốt gọn.

Không khí ngột ngạt, bão hòa những cuộn bụi.

Và tiếng la hét của những phụ nữ bị tra tấn.

Chùm ánh sáng chiếu vào ga ra. Ngột ngạt đến mức bóng tối trở nên có thể sờ thấy được, giống như một thực thể dày và mềm lấp đầy tất cả, tràn vào khắp nơi, ngay cả những góc nhỏ nhất.

Trong một vầng sáng nhỏ hiện ra một chiếc bàn thợ, bên trên là những dụng cụ đã rỉ sét. Ánh đèn lia trên mặt bàn làm việc. Một cái can. Vài đoạn dây điện nối dài. Một chiếc đài cũ. Một cái kìm.

Một phụ nữ đang quỳ, cầu xin lòng thương hại, rên rỉ trong khi một bàn tay cô bị giam trong gọng kìm. Dây thanh quản của cô đứt tung khi gọng kìm siết chặt và một chiếc cưa cứa vào phần thịt ở cổ tay cô.

Juliette xua ngay hình ảnh của trí tưởng tượng.

Tiếng dây xích vang lên đâu đó trong ga ra,ngay gần Juliette.

Dây xích của chiếc ròng rọc.

Juliette tiến thêm về phía trước, đi qua nồi hơi lạnh lẽo của ngôi nhà. Bụi tràn vào họng cô, nhưng cô thấy không đáng để ý tới và đi tiếp.

Khi đi vòng qua một chiếc động cơ ô tô đặt trên chồng gạch, chùm ánh sáng đèn pin chiếu vào những mắt xích quấn chặt vào nhau. Cái móc của hàng thịt ở đầu dây xích nhanh chóng hiện ra trong ánh sáng, như thể đang khao khát gặp lại Juliette.

Cô gái sững người trước cái móc nhọn bằng thép.

Hình như nó rất sạch. Bụi không dám rơi xuống lớp mạ bằng kền, và không khí ở cách xa cái mũi nhọn hoắt của nó. Cái móc vẫn luôn lạnh lẽo, Juliette tin chắc như thế. Đau đớn hơn khi nó đâm xuyên vào phần thịt nóng ấm của một con người.

Cuối cùng, cô đưa mắt xuống dưới. Một cánh cửa sập từ lâu không còn bị che giấu nằm khít bằng mặt nền. Dưới nữa là căn hầm nơi Juliette từng bị nhốt và chờ đợi cái chết.

Ngực cô chợt co thắt, cô đánh rơi chiếc đèn pin, nó lăn vào dưới gầm tủ và tắt ngấm. Hai bàn tay cô đông cứng lại, khắp người cô nổi da gà từ khi cô mới bước vào nhưng cô không nhận ra. Cô run rẩy trong bóng tối.

Juliette quỳ xuống nền xi măng lạnh ngắt và bắt đầu mò mẫm dưới gầm tủ. Tay cô chạm phải vài thứ nho nhỏ và cô không thích nghĩ xem chúng có thể là gì, đinh ốc hay gián. Rồi cô cảm thấy cái tay cầm bằng nhôm và cầm lấy đèn.

Cầu mong nó không bị vỡ, cô nhắc đi nhắc lại cho tới khi bấm nút và bóng đèn sáng lên.

Cô thở sâu nhẹ nhõm.

Cô lại gần cánh cửa sập, tim cô bắt đầu đập mạnh trong ngực, mạnh đến nỗi áo cô phập phồng. Chiếc ròng rọc và cái móc nằm ngay trên nóc cửa, vì thế cô phải di chuyển chúng ra chỗ khác.

Cái móc sáng bóng một cách lạ thường trong ánh đèn pin.

Nó cực kỳ sạch sẽ.

Như vừa được lau chùi.

Không thể nào, không ai điên khùng tới mức đến đây chỉ để lau chùi cái móc này. Nhưng Juliette khó mà ngăn mình không nhìn vào vật khó chịu bằng kền ấy. Rồi cô xua đi những ý nghĩ hoang đường đó và đặt tay lên ròng rọc.

Cô quay nó trên trục. Tiếng rít kinh khủng đầu tiên vang lên, Juliette bật nhảy về đằng sau và suýt nữa đánh rơi đèn pin. Cô lấy hết dũng cảm và đẩy vào thanh ngang. Giống như hai chiếc tàu chở hàng đâm nhau kêu rầm một cái. Tiếng rít không, chỉ là tiếng kêu của kim loại. Mà còn là lời gợi nhắc đến cái chết vốn bao phủ toàn bộ ngôi nhà, cả bên trong lẫn bên ngoài, làm thức tỉnh những bóng ma quá khứ.

Khi đã ở trên cánh cửa sập, Juliette cúi xuống và nắm lấy tay cầm bằng sắt.

Tại sao mình lại làm việc này? Mình cũng điên rồi!

Tim cô đập thình thịch giống như một chiếc động cơ chạy hết công suất nhưng cô biết mình phải làm việc này. Cô phải mở nó ra và đối mặt với sự sợ hãi của mình.

Tay cô nắm chặt tay cầm bằng thép.

Cô sẽ chứng tỏ cho bản thân thấy rằng tất cả những thứ này chỉ là quá khứ, và sẽ biến nỗi sợ thành kỷ niệm.

Cô nhấc tấm cửa lên và một ô vuông đen ngòm xuất hiện. Trong khoảng mười giây, cô ngỡ như nghe thấy các vong hồn nạn nhân ảo não bay lên trước mặt cô trong chuỗi tiếng rên rỉ bi thảm. Nhưng không có gì xảy ra.

Một chiếc thang gỗ nhỏ được thả vào hố đen. Juliette bám vào và bước xuống nấc thang đầu tiên. Cô gần như rít lên vì khó thở.

Nhưng mình phải làm việc này. Mình phải làm. Sau đó tất cả sẽ kết thúc.

Sau đó, cô có thể vào trong ngôi nhà, lục soát, tìm ra những chi tiết nhỏ nhất có thể gắn Leland với Quạ và kẻ giết người hiện tại. Cô biết là nhất định phải có những dấu vết những bằng chứng vật chất về một mối liên hệ, những yếu tố mà cảnh sát chưa phát hiện ra. Như thế, cô sẽ vượt qua được nỗi sợ của mình, và Leland sẽ chỉ còn là một hồn ma không đáng sợ, một sự hiện hình mà cô có thể quét sạch bằng một hơi thở.

Cô sẽ vào nơi ở của Leland và tìm ra tất cả các bí mật của hắn. Cho tới bí mật cuối cùng.

Cô xuống một mạch hết các nấc thang và chạm chân vào nền, đèn pin chĩa xuống đất. Hơi thở hổn hển. Tim gõ mạnh vào thái dương bằng những tiếng đập thình thịch. Không khí ấm, gần như ẩm ướt. Quá nhiều nước mắt đã rơi ở đây, quá nhiều sợ hãi đã toát ra từ đây khiến không khí tràn ngập một sự nặng nề độc hại.

Rồi chùm ánh sáng chầm chậm chiếu lên vách.

Cô thấy những vết móng tay trên các bức tường bằng gỗ. Cái lỗ mèo chui được đào vô ích dưới chân tường, chính ở đó cô từng nằm co quắp trong nỗi khiếp đảm. Nơi này chật hẹp hơn cô mường tượng trong ký ức của mình. Cô xoay người dần. Nhìn kỹ từng góc hầm.

Hơi thở của cô lắng xuống. Tim cô bình tĩnh trở lại.

Nơi này là tâm điểm của nỗi sợ hãi trong tâm trí cô, ít nhất là cho tới thời điểm này. Ở đây trong ánh sáng yếu ớt, cô nhìn thấy nhà tù mà một kẻ điên rồ đã đào. Cô thấy Leland đã phải khổ công xây dựng hang ổ tội ác của hắn. Cô thấy hắn say sưa thích thú khi quan sát các nạn nhân trong cơn kinh hoàng từ trong ga ra. Cô thấy con người hắn. Cô thấy sự điên dại trong hắn và không sợ con quái vật nữa. Hắn không phải là siêu nhân, hắn sẽ không quay lại được.

Cô hiểu hắn đã chết thực sự vào hôm đó. Hộp sọ hắn đã vỡ tung dưới sức nóng và sức công phá của viên đạn. Và ngay cả những cuốn sách ma thuật cổ xưa của hắn cũng không thể đưa hắn về đây được nữa.

Ở đâu đó, một kẻ nào đó đang chơi trò điều khiển một con rối hành động theo cách của Leland, nhưng chỉ là một con rối, không hơn không kém.

Bên trên, trong ga ra, có một vật lăn trên nền.

Juliette giật mình và chĩa đèn pin về phía cửa hầm.

Vật đó dừng lại. Có thể là một lon bia lăn trên nền xi măng.

Juliette đặt một chân lên thang và nhẹ nhàng leo lên.

Cái lon có thể bị gió thổi, hoặc một con vật đã vào trong ga ra, dù sao thì cô cũng vẫn để cửa mở.

Không thể tồi tệ hơn. Không, giờ thì không nữa rồi.

Cô ló đầu lên khỏi hố và chiếu sáng trước mặt. Mấy cái thùng chắn mất tầm nhìn của cô, có quá nhiều thứ trong cái kho này. Nhưng cô không thấy con thú nào cả. Trừ khi nó trốn ở đâu đó, nấp để chờ cô hay vì run sợ. Không có con vật nào.

Hoặc là không có ai!

Juliette trèo hẳn lên, và đúng vào lúc cô đặt đèn pin lên nền nhà để đứng dậy, thì sợi xích ròng rọc phát ra tiếng kêu.

Không giống như khi gió đùa với các mắt xích. Không, mạnh hơn nhiều, có chủ ý hơn.

Giống như ai đó vừa mới kéo nó.

Và trong bóng tối thê lương, một cái bóng chui ra khỏi nơi ẩn nấp.

Juliette lùi lại và chuệnh choạng, nhưng cô có phản xạ bám vào một cái hòm, thay vì ngã xuống hố.

Một giọng nói không âm sắc cất lên, vô hồn.

- Ta đợi thời khắc này lâu lắm rồi.

Cái bóng tiến lên một bước.

Và tim Juliett nổ tung trong lồng ngực.

Leland Beaumont hiện ra trong ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn pin vẫn còn nằm lăn lóc trên nền nhà. Đúng là hắn, bằng xương bằng thịt.

Với nụ cười dã thú.

Hắn nhào tới cô.
 

hoahongden12

Active Member

Cỗ máy V8 mạnh mẽ của chiếc Mustang khiến các piston của nó gầm lên lần cuối trước khi dừng hẳn. Brolin khóa cửa xe và lấy từ túi áo vest ra một mẩu giấy trên đó có địa chỉ mà anh ghi vội từ niên giám. Rồi anh bước nhanh lên vỉa hè phố Montgomery. Đêm nhẹ nhàng phủ dần xuống Portland, báo hiệu đã đến giờ bật đèn điện.

Brolin đi được gần một trăm mét thì điện thoại di động của anh rung lên.

- Brolin nghe đây.

- Josh, tôi là Carl DiMestro. Anh ở đâu thế?

- Phía Nam Downtown. Có chuyện khẩn cấp hay sao?

- Nghe đây. Tôi muốn nói về chuyện những sợi tóc mà anh đưa cho tôi để so sánh với sợi lông tìm thấy ở nhà Camelia McCoy. Anh lấy sợi tóc ở đâu thế?

- Tại sao? Có vấn đề gì vậy?

- Những sợi tóc đó chắc hẳn thuộc về kẻ đã để lại sợi lông mu ở nhà nạn nhân mới đây nhất.

Brolin dừng lại giữa vỉa hè, trước một đám đông.

- Không thể nào.

- Nghe này, tôi không thể chắc chắn hoàn toàn, anh thấy đấy, có vài sắc thái khác biệt, nhưng dù sao cũng rất giống nhau.

Carl DiMestro nghe thấy rõ anh bạn đồng nghiệp thở dài.

- Tôi từng hy vọng nhận được một câu trả lời khác cơ, Carl ạ. Mấy sợi tóc mà tôi đưa cho anh là của Leland Beaumont.

Khi phát hiện ra ngôi mộ trống rỗng, và khi nỗi kinh hoàng đã qua đi, Brolin luôn có phản xạ nghề nghiệp. Thấy vài sợi tóc ở đáy quan tài, anh đã nhặt chúng và đặt vào một trong các túi nhựa lúc nào cũng có trong túi áo anh. Anh làm việc này với suy nghĩ sẽ đem phân tích chúng để chắc chắn rằng người được chôn ở đó chính là Leland.

- Đao phủ Portland ư? Nhưng… hắn chết rồi cơ mà! DiMestro lẩm bẩm.

- Nhưng đúng thế đấy! Tôi đã thấy sọ hắn nổ tung trước mắt tôi! Thế nhưng ADN của hắn lại được tìm thấy trên đầu mẩu thốc lá ở bãi đỗ xe, và hắn đã để lại một sợi lông ở nhà Camelia, mới cách đây ba ngày! Carl, tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng có kẻ khinh thường chúng ta.

Brolin không muốn tin chuyện này. Mọi thứ đều khiến người ta nghĩ rằng Leland trở về từ Địa ngục để gây ra những vụ án mới.

Carl DiMestro cũng nhanh chóng lấy lại sự tự tin đầy lý tính:

- Đợi đã, vẫn chưa hết. Mọi người vừa hoàn tất so sánh gien giữa ADN thu được trên đầu mẩu thốc lá, tức là của kẻ giết người, và mẫu nước bọt của Milton Beaumont.

- Thế nào?

- Tôi thấy một vấn đề nghiêm trọng, Josh ạ. ADN trên đầu mẩu thuốc lá là của Leland Beaumont, con trai Milton.

- Cho tới giờ, chuyện đó là bình thường. Tôi muốn nói rằng chúng ta biết chuyện đó, ngay cả khi nó không thể xảy ra và Leland đã chết. Vấn đề là ở chỗ nào?

- So sánh gien cho thấy những khác biệt không thể xảy ra.

Brolin cao giọng mặc dù anh không muốn:

- Gì cơ? Khác biệt nào?

- Josh, kẻ đã cho anh mẩu nước bọt không thể là cha của Leland, có những khác biệt quá rõ ràng. Có sự không tương thích về gien. Thật may mắn vì tôi nhận ra điều này, lúc so sánh hai mã gien thu được sau khi xử lý, tôi đã quan sát chúng rất kỹ. Tôi thấy ngay rằng chúng không giống nhau, vì thế Milton không phải là kẻ để lại đầu mẩu thốc lá. Hiển nhiên là không tương thích, tôi tưởng sẽ thấy ADN của cha và con trai, nhưng tuyệt đối không phải. Chúng không cùng dòng máu.

- Khốn kiếp, thế mà trước đó không ai hay biết gì sao?

- Tôi không phải là cảnh sát hiện trường.

- Xin lỗi. Anh hãy gọi cho Lloyd Meats và kể lại toàn bộ sự việc, yêu cầu anh ấy tập hợp tư liệu về việc này. Tôi muốn biết liệu Leland có phải là con nuôi hay người mà tôi gặp ở nhà Baumont thực ra không phải là Milton.

- Đã rõ.

Brolin hết lời cảm ơn DiMestro và cúp máy. Anh phải cố gắng giữ đầu óc tỉnh táo, không nhầm lẫn. Cuối cùng thì cuộc điều tra cũng bắt đầu trôi chảy, ngòi nổ đã được châm. Trong vài giây, anh điểm lại nửa tá lý thuyết có thể lý giải cho tình trạng này nhưng dường như không lý thuyết nào dễ chấp nhận hơn các lý thuyết còn lại. Anh xua khỏi đầu tất cả các giả thiết tồi tệ. Một khi chưa có được những yếu tố cụ thể hơn thì suy đoán cũng chẳng để làm gì. Meals rất nhanh nhạy, vốn là một cảnh sát giỏi, anh ấy sẽ tìm được thứ cần tìm chỉ trong thời gian ngắn. Từ nay đến lúc đó, Brolin cần hoàn tất một phần khác của công việc.

Anh bước thêm vài bước và tới trước một cửa hiệu nhỏ. May thay, nó vẫn còn mở cửa, chủ cửa hàng này nằm trong số những người bán hàng hiếm hoi chỉ tuân theo quy luật khách hàng cũng như tâm trạng họ. Brolin đẩy cửa bước vào. Cần câu được cắm trong giá nom giống những vũ khí đã sẵn sàng để sử dụng. Gần như ở khắp nơi, đặt trên giá, treo bằng sợi dây nylon hay bám trên tường, những con thú đang dõi theo anh bằng cặp mắt thủy tinh.

Brolin lại gần quầy hàng. Một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi đang đọc tạp chí qua cặp kính hình bán nguyệt. Ông ta có khuôn mặt đặc trưng của những người thường làm việc ngoài trời, gương mặt sạm vì mưa, gió, nắng qua hàng thập kỷ. Một chiếc mũ lưỡi trai “NRA” ôm sát lấy đầu, được trang trí bằng một loạt móc câu đủ kích cỡ.

Chiếc mũ và mấy chữ viết tắt đó khiến Brolin muốn chơi bài ngửa và anh chìa tấm thẻ thanh tra ra, thành viên tích cực của một tổ chức bảo vệ thường là người nhiệt tình bảo vệ lực lượng giữ gìn trật tự.

- Chào ông, tôi là thanh tra Brolin. Ông có phải là Fergus Quimby, chủ cửa hàng không?

Người đàn ông xác nhận và gập cuốn tạp chí lại, rõ ràng ông ta rất ngạc nhiên khi thấy một thanh tra tới cửa hiệu của mình.

- Tôi cần hiểu biết của ông, nếu ông không ngại giảng giải cho một cảnh sát còn mù mờ về…

Brolin quay người và khoát tay chỉ khắp cửa hàng.

- Anh muốn biết điều gì? Người đàn ông đội mũ lưỡi trai hỏi thẳng.

- Tôi muốn ông nói về cách thực hiện các… các con thú nhồi này.

- Đầu tiên, tất cả tùy thuộc vào kích thước.

- Cứ cho là một động vật có vú lớn.

- Lớn ư? Với con thú lớn, da rộng hơn, rất dễ biến dạng, có thể giãn thêm hay co lại, do vậy, quan trọng nhất là phải đo đạc chính xác trước khi mổ nó ra.

Các vết phấn. Kẻ giết người đánh dấu bằng phấn, để không làm hỏng da.

- Sau đó, cần phải biết là anh đang ở trong xưởng hay đang trong “hành trình” như người ta thường nói. Nếu anh ở trong rừng vài ngày, tốt nhất nên nhanh chóng thuộc da. Cả với xương cũng thế.

- Xương dùng để làm gì?

Nét mặt Fergus Quimby nhăn lại như một tấm nhựa dưới sức nóng của ngọn lửa.

- Thưa anh, xương chính là thứ để làm khung. Không có xương, sẽ không có hình dáng, chỉ là một con thú rỗng. Cần có xương để đem lại cho các chi hình dạng sống động, vẻ bề ngoài tự nhiên.

- Và ông xử lý xương bằng xà phòng chứa asen và kali cacbonat, đúng không?

- Chính xác. Để đuổi côn trùng và tránh tình trạng thối rữa. Sau đó là có thể yên tâm được rồi. Với da thì phức tạp hơn một chút vì cần phải nhúng chúng vào hỗn hợp bột phèn và muối biển, và nhất là phải hong khô trong bóng râm. Không phải làm ở đâu cũng được.

Những lời giảng giải của chuyên gia về thú nhồi mang một ý nghĩa khác trong đầu Brolin, thê thảm hơn hành động xẻ thịt một con vật. Bởi vì đằng sau mỗi câu nói, Brolin lại như nhìn thấy hình ảnh kẻ giết người đang cắt da nạn nhân, đầu tiên là hai cánh tay, rồi đôi chân. Hắn cẩn thận đánh dấu các mốc bằng phấn rồi quay về hang ổ của hắn. Ở đó, hắn tỉ mẩn lọc da, rửa xương cho sạch thịt và xử lý tất cả bằng những chất thích hợp. Sau đó, hắn vuốt ve con chó của mình và để giây một ít xà phòng chứa asen vẫn dính dưới móng tay vào lông con chó. Rồi buổi tối, khi cọ xát với đồ lót của Camelia, hắn vô tình để rơi vài sợi lông chó dính trên quần áo hắn. Tất cả đều trùng hợp.

Kẻ giết người chặt các chi của các nạn nhân để nhồi.

Nhằm mục đích gì?

Brolin không có bất cứ ý tưởng nào, nhưng chắc chắn đó là ảo ảnh của một đầu óc bị tra tấn.

Trong khi chuyên gia về thú nhồi tiếp tục giảng giải, Brolin tưởng tượng ra một kẻ đầu óc rối loạn, sống giữa một căn phòng đầy những tay và chân nhồi treo trên tường.

Các chi của con người.
 

hoahongden12

Active Member

Trong khoảnh khắc, hắn nhào vào cô.

Hai bàn tay rắn chắc của hắn chộp lấy Juliette, còn cô cố lùi lại. Nhưng cú sốc khiến cô co cứng cơ, không thể cử động được, đầu óc tối sầm lại. Leland đập rất mạnh vào mặt cô khiến cô ngã khuỵu.

Vị đáng sợ của máu tràn vào miệng Juliette. Một tín hiệu báo động rú lên trong đầu cô, kêu to như phá vỡ tất cả, như bản năng sống bất chợt được kích hoạt.

Hắn ở bên trên cô, sẵn sàng bổ nhào vào con mồi, tất cả móng vuốt giương ra để cắm sâu vào thịt như một con chim săn mồi lao xuống từ trên trời.

Juliette quay đầu để tìm kiếm một sự giúp đỡ nào đó, nhưng một cơn đau nhói bất ngờ giáng xuống mặt cô, từ miệng đến thái dương. Cô không thể không kêu lên vì đau đớn. Leland đã đập vỡ hàm cô.

Tín hiệu báo động biến thành tiếng la hét điên dại.

Nếu không phản ứng ngay, cô sẽ chết. Sẽ không có ứng cứu may mắn, lần này không có nữa, không có người hùng cứu nguy, chỉ một mình cô hoặc hành động hoặc chết.

Juliette thấy chiếc đèn pin của mình vẫn nằm lăn lóc trên nền. Cô bật dậy, chộp lấy một đầu thân đèn, rồi dùng hết sức nắm chặt nó, cô tiếp tục dồn hết đà đang có vào các cơ đùi để đứng dậy.

Chiếc đèn đập mạnh vào vai Leland.

Trong một giây, hắn bị mất bình tĩnh hoàn toàn, vì bất ngờ hơn là vì đau đớn, và hắn vẫn lơ lửng bên trên Juliette. Không chần chừ, cô bồi tiếp một cú nữa. Cô đập vào đầu hắn và gò má Leland nổ tung như một ngôi sao màu tía. Hắn rú lên, khua mạnh hai cánh tay dài ngều vào không khí, hay một phần nào đó trên cơ thể Juliette để nghiền nát.

Cô thoáng lưỡng lự không biết phải làm gì, chạy về hướng nào. Leland đang đi ra cửa, cô chỉ còn cách lao về phía một cái cửa khác đi vào trong nhà. Rất nguy hiểm, vì cô không biết rõ ngôi nhà.

Juliette thả đèn xuống và lao về phía cửa, vòng qua Leland trong khi hắn vừa chửi thề vừa dùng tay áo thấm máu.

Cô vừa đi được hai bước thì cánh tay tên Đao phủ đột ngột duỗi ra. Bàn tay hắn mở ra như một con nhện vàng và túm chặt lấy tóc cô khi cô đi qua hắn. Đang đà chạy, cô suýt nữa bị gãy xương cổ khi hắn giật mạnh cô về phía sau.

Cô thét lên và ngã ngửa xuống.

Nhưng hắn đã ở trên cô, vòng đôi tay dài khóa chặt con mồi, đôi mắt trống rỗng nhìn chằm chằm vào cô, nụ cười đầy thèm khát. Hắn lấy từ trong túi ra một vật màu đen cỡ bằng chiếc điều khiển ti vi rồi đưa nó lại gần Juliette. Cô thấy một vòng cung xanh lam phát ra từ cái hộp, nom giống như một tia chớp, và mặc dù còn loạng choạng vì đau và bị ngã, cô vẫn vùng vẫy thật mạnh trước mặt kẻ tấn công mình để ngăn hắn lại gần.

Hắn vẫn xông vào và lại một lần nữa đập mạnh vào mặt cô.

Điều cuối cùng mà Juliette cảm nhận được là cơ thể cô giật nảy lên khi cái hộp phóng một luồng điện mạnh vào cô.

***

Dây trói cứa vào cổ tay cô. Cô khó nhọc tỉnh lại, một ít chất lỏng ấm chảy trên mặt cô. Cô mở mắt và thấy đau ê ẩm. Hàm cô nặng hàng tấn, khiến cô đau nhói như chưa bao giờ đau đến thế. Mắt phải khó mở hơn, cô hiểu rằng nó đã bị sưng tấy.

- Nào, dậy thôi. Ngủ thế là đủ rồi.

Giọng nói vẫn vô âm sắc, nhưng uy quyền toát ra từ đó gần giống với sự hận thù.

Mắt cô đã quen với bóng tối, đầu tiên Juliette tưởng mình vẫn đang ở trong ga ra của Leland. Nhưng ở đây nóng hơn và đồ đạc được sắp xếp kiểu khác. Cô thấy mình bị trói vào một chiếc ghế, hai tay quặt sau lưng ghế, còn cổ chân bị buộc chặt vào chân ghế. Đây là một nhà xưởng khá rộng, và đặc biệt tối, không hề có cửa sổ. Có một bóng đèn neon dài tỏa ánh sáng tím bên trên chiếc bàn thợ trước mặt cô, và một nguồn sáng nữa ở phía bên phải. Mặc dù bị thương ở mắt, cô vẫn nhìn thấy một bể cá dài ít nhất ba mét, từ đó tỏa ra thứ ánh sáng màu xanh lá cây. Bên trong bể không có cá.

Không thấy có giẻ bịt miệng, cô hiểu rằng căn phòng hoặc là được cách âm, hoặc là cách xa hàng xóm, nghĩ đến đây, nước mắt cô dâng lên nhưng cô kịp kìm lại ngay.

- Cô thích chỗ này không?

Juliette nhìn vào cái bóng ở phía bên kia. Leland đứng đó. Đúng là hắn. Dù ánh sáng yếu ớt, cô vẫn nhận ra nét mặt của hắn, không thể nghi ngờ được nữa.

Quả là không hoàn toàn giống hệt hắn, có lẽ gầy hơn, sự điên dại hiện rõ trên khuôn mặt, nhưng nói chung, vẫn đúng là Leland Beaumont.

Kẻ đã chết cách đây một năm.

- Cô biết đấy, tôi không muốn làm như thế với cô, hắn vừa nói vừa đặt một ngón tay lên vết băng trên gò má. Chuyện rất bình thường.

Rồi hắn tiến lại gần Juliette, đặt tay vào giữa hai đùi cô.

- Và chuyện này cũng bình thường, hắn nói mà không hề biểu lộ cảm xúc.

Hắn bắt đầu vuốt ve quần của Juliette, dùng tay cọ xát mỗi lúc một mạnh thêm đến nỗi cô cảm thấy nóng rực lên. Rồi hắn dừng lại như khi bắt đầu, đứng lùi ra và đặt bàn tay vào dưới mũi. Hắn thở thật mạnh, mũi hắn phát ra những tiếng rít nhỏ.

Juliette thả lỏng bớt cơ chân. Thật kỳ lạ, cô không cảm thấy co cứng vì sợ nữa. Tim cô đập nhanh, hai bàn tay ẩm ướt, nhưng cô không có cảm giác sợ đến tê liệt cơ thể và tâm trí. Nỗi sợ đã lan tỏa khắp người cô, giờ đây nó ở trong cô, đè nặng lên cơ thể cô, làm nổi lên trong lòng cô một nỗi thất vọng mệt mỏi.

Giờ đây cô sống cùng sợ hãi. Nó là bạn đồng hành của cô.

Leland thôi không hít mạnh ngón tay nữa mà trở lại đứng trước mặt cô.

- Cô có thích xem bộ sưu tập của tôi không?

Cô khó nhọc ngẩng đầu lên cho tới khi nhìn được vào mắt hắn. Hắn nhìn ngay ra chỗ khác và đi bấm một cái nút. Hắn lẩn trốn ánh mắt cô, không chịu nổi ánh mắt đó khi cô vẫn còn sống.

Cả một mảng tường sáng lên dưới ánh đèn Noel màu sắc rực rỡ. Kiểu đèn to treo trên mái nhà, hẳn là hắn đã đánh cắp được trong một đêm đông. Các bóng đèn được gắn ở khắp nơi trên tường, uốn lượn giữa các con thú nhồi. Một bầy thú chết đang nhìn Juliette, mắt chúng lấp lánh trong ánh sáng vàng, xanh lam, đỏ và xanh lục của dãy đèn trang trí.

- Ôi, cô không quá thích những thứ này đấy chứ? Đây là bộ sưu tập của tôi, hắn giải thích, lần đầu tiên giọng nói của hắn có biểu lộ chút cảm xúc.

Hắn lướt tay qua mõm một con thú. Juliette phải cố gắng lắm mới nhìn được trong bóng tối. Cô hiểu đó là một cái đầu chó gắn vào tường.

- Tôi rất thích bộ sưu tập này. Nhưng với cô, tôi có một thứ còn hay hơn, hắn bỗng trở nên rất thỏa mãn về bản thân. Tôi có người yêu cho cô. Thật đấy, nhìn đây này.

Lần này, tay Juliette run bắn lên. Hắn tới gần cô và không cần dài dòng, hắn nhấc cô lên để xoay cái ghế, khiến cô quay 180 độ.

Phần này của xưởng tối om. Ánh đèn neon tím, ánh sáng xanh lục chảy lỏng của bể cá hay màu sắc rực rỡ của đèn trang trí đều không tỏa sáng đến đây.

- Tôi nghĩ rằng cô sẽ còn thích hơn nữa, hắn nhận xét ngắn gọn.

Hắn bật một công tắc điện, một đèn chiếu nhỏ hắt ánh sáng lên từ nền nhà.

Một người đàn ông bị gắn trên tường.

Anh ta mặc bộ quần áo đẹp đầy bụi, hai bàn tay trắng bệch. Khuôn mặt anh ta cũng hoàn toàn trắng bệch như thế, chỉ đôi môi là hồng hào hơn một chút. Anh ta đội mũ phớt màu đen sụp xuống trán.

Juliette sững người. Rối trí hoàn toàn vì khuôn mặt không thể tin nổi đó.

- Da trắng bệch bởi thông thường, thịt khiến da có màu hồng; nhưng hãy bỏ quá cho tôi vì đây là lần đầu tiên tôi làm, hắn giải thích.

Và dưới vành mũ, Juliette nhận ra một khoảng rỗng.

Không có phần trên sọ.

Khuôn mặt của con người này không đầy đủ, bị mất hẳn phần trên lông mày.

Cô nhìn trân trân vào cái xác nhồi của Leland Beaumont.
 

hoahongden12

Active Member

Brolin đẩy cánh cửa phòng Lloyd Meats. Đồng nghiệp của anh vừa mới đặt điện thoại xuống và kích chuột máy vi tính để mở một trang dữ liệu khác. Điều khiến Brolin bất ngờ nhất là Bentley Cotland cũng có mặt ở đây.

- Anh đến đúng lúc đấy, Meats nói với Brolin. Đã một tiếng đồng hồ nay tôi cố gọi đến các trung tâm bảo trợ xã hội nhưng chỉ toàn gặp máy trả lời tự động hoặc những người ngu ngơ.

- Vào lúc chín giờ tối thì đáng ngạc nhiên đấy, Bentley giễu không có vẻ ác ý.

- Carl đã giải thích với anh chưa? Brolin hỏi.

Meats chỉ tay vào màn hình.

- Theo anh, tôi làm gì trên Internet? Và tại sao tôi lại gọi đến các trung tâm bảo trợ xã hội? Vâng, anh ấy đã giải thích cho tôi. Dù sao thì chuyện này cũng rất điên rồ! Chúng ta vừa tìm được dấu vết của Leland Beaumont, hay đúng hơn là Stephen Phillips. Đó là tên của hắn cho tới năm 1978, khi hắn được gia đình Beaumont nhận làm con nuôi.

- Leland là con nuôi ư? Tại sao chi tiết này lại có thể bị bỏ qua nhỉ?

- Nếu điều này không có trong hồ sơ của hắn, thì đó là vì anh tìm hiểu về một kẻ đã chết, đúng không? Khi chúng ta quan tâm tới hắn, thì người hắn đã lạnh, không ai lại đào xới đến tận chi tiết này. Mọi người chỉ quan tâm đến các hành động tàn bạo của hắn đối với nạn nhân, và nhất là xác định danh tính của tất cả các nạn nhân. Không ai thực sự tìm cách đào sâu từng chi tiết nhỏ nhất của đời hắn, hắn đã chết rồi, nên không đáng được quan tâm nữa. Ngay cả các nhà báo cũng chỉ phản ánh lại các sự kiện.

- Họ còn mải quấy rầy Juliette, Brolin nhận xét.

Meats nhún vai.

- Đúng, với lại Milton Beaumont quá khó gần nên báo chí không thích. Chúng ta đã để vụ việc tự khép lại, tôi nghĩ là như thế tiện cho tất cả. Và tôi nghĩ trại trẻ mồ côi nơi Leland từng sống không được… nói thế nào nhỉ… minh bạch cho lắm.

- Anh nói rõ hơn đi.

- Vâng, đó là một cơ sở nơi các quy định thông thường không được tuân thủ chặt chẽ. Những người quản lý thích để bọn trẻ ra đi cùng với một cặp vợ chồng, ngay cả khi cặp vợ chồng đó không đáp ứng được tất cả các tiêu chí bắt buộc, hơn là để chúng lớn lên mà không có bố mẹ, giữa bốn bức tường. Chính vì thế, hồ sơ theo dõi hành chính không phải lúc nào cũng rõ ràng. Nói tóm lại, chúng ta may mắn lắm mới tìm ra được thông tin nhanh đến thế. Trại trẻ này ở Florida và đã đóng cửa từ hơn mười lăm năm nay.

- Anh lấy thông tin này ở đâu?

- Chính Bentley đã tìm thấy trong tư liệu của các báo nhờ Internet.

Bentley gật đầu, vẻ tự hào về bản thân.

- Vâng, khi thanh tra Meats tìm được tên của trại trẻ mồ côi đó, tôi đã dùng Newsweb để tìm hiểu một chút xem chúng ta đang tiếp cận với loại trại trẻ nào, không có gì phức tạp cả. Với các từ khóa, người ta có thể tìm trên Newsweb tất cả các tư liệu từ vô số báo chí địa phương và quốc gia. Một công cụ lý tưởng, chỉ cần biết cách sử dụng nó thôi.

- Nói thật nhé, tôi không tin là một cặp vợ chồng như vợ chồng Beaumont lại có thể nhận được con nuôi ở một trại trẻ “bình thường”. Họ sống ngoài lề xã hội mà, Meats nói thêm.

Brolin lại gần cửa sổ và nhìn ngắm quang cảnh bên ngoài.

- Milton Beaumont khá mờ ám, anh nói. Thẳng thắn mà nói, lần gặp ông ta gần đây nhất, tôi không thấy ông ta ngơ ngác như ông ta vẫn cố tỏ vẻ để chúng ta tin thế. Cũng có thể tôi nhầm, nhưng tôi bắt đầu tự hỏi liệu ông già Milton này có phải là một kẻ điều khiển thiên tài không. Ông ta có thể là Quạ.

- Anh nghĩ thế sao? Bentley ngạc nhiên đến mức đứng dậy khỏi ghế.

- Có thể xuất phát từ quan điểm rằng Milton là một kẻ nói dối hoàn hảo, sao lại không nhỉ? Tôi muốn nói là ông ta biết nhiều về Leland hơn bất cứ ai vì chính ông ta đã nuôi dạy hắn, cho nên nếu đủ khả năng nói dối chúng ta giỏi như thế, thì ông ta cũng hoàn toàn điều khiển được một kẻ thứ ba.

- Có nghĩa là ông ta diễn kịch với chúng ta từ đầu, từ hơn một năm nay ư? Nhưng vì mục đích gì?

- Tôi không biết, đây chỉ là giả thiết. Tôi không thích cái cách ông ta nhìn tôi ra về lần vừa rồi, như thể ông ta biết rất rõ tôi là ai, và ông ta định chơi tôi. Trong một giây, tôi thấy rõ ràng là tất cả sự đần độn thường thấy ở ông ta vừa mới biến mất, thay vào đó là một đầu óc sắc sảo và xấu xa khủng khiếp.

- Anh có muốn cử người kèm chặt ông ta không? Theo dõi ông ta một chút…

Brolin lưỡng lự một lát rồi thay đổi ý kiến:

- Không phải bây giờ. Chúng ta không có gì chống lại ông ta cả, vả lại ông ta sẽ nhận ra ngay là đang bị giám sát, nếu có tội, ông ta có thể dừng lại hoặc đánh lừa.

Bentley gật đầu liên tục.

- Rất chính xác, anh lên tiếng đồng tình. Chúng ta không có bằng chứng, mỗi cái đầu mẫu thuốc lá với mẫu ADN của Leland Beaumont chẳng nói lên điều gì cả. Sẽ chẳng tòa án nào chấp nhận hết. Và sợi lông cũng sẽ không được thừa nhận ở tòa nếu không có mẫu ADN. Cần có những bằng chứng thuyết phục hơn. Theo đúng luật, chúng ta không có gì để chứng minh Milton có liên quan đến các vụ giết người gần đây.

Không ai nhận ra rằng trợ lý chưởng lý tương lai đã dừng từ chúng ta, tự hòa mình vào cuộc điều tra. Dù sao đây cũng là một dấu hiệu tạo lòng tin.

- Thế còn anh? Anh có tin gì không? Meats hỏi.

Brolin giơ tập hồ sơ trên tay ra.

- Cái gì thế?

- Danh sách những người đặt tạp chí Nhồi da động vật ở Oregon.

- Cái quái gì vậy? Meats nôn nóng hỏi.

Brolin kéo một chiếc phô tơi lại và ngồi xuống đối diện với anh bạn đồng nghiệp của mình.

- Tôi nghĩ là kẻ giết người có thể từng đặt tạp chí này.

- Thế ư? Sao anh lại nghĩ như thế?

Việc giải thích xem ra rất dài dòng. Brolin quyết định kể tóm tắt. Anh trình bày các phát hiện trong ngày của mình và kết thúc bằng kết luận giật gân nhất. Meats và Bentley há miệng nghe anh nói.

Khi Brolin nói xong, Meats không thể ngăn mình nhắc đi nhắc lại:

- Anh thực sự tin là hắn chặt chân tay các nạn nhân để nhồi ư? Nhưng để làm gì mới được chứ? Ai lại đi nhồi chân tay! Phải toàn bộ thân thể, chứ không chỉ một chi, không thể hiểu nổi!

- Tôi không biết, Lloyd ạ, có lẽ hắn đi theo một con đường cụ thể mà chúng ta không biết, nhưng hiện tại, đây là hướng điều tra duy nhất của chúng ta.

Bentley cầm lấy tập hồ sơ và đang bắt đầu lật giở danh sách người đặt tạp chí thì cửa phòng đột ngột bật mở, Larry Salhidro bước vào, mình đầm đìa mồ hôi.

Brolin đứng phắt dậy.

- Có chuyện gì thế? Anh hỏi và linh cảm có tin xấu.

- Là… Juliette. Cô ấy đã biến mất.

Một khoảng trống khủng khiếp khoét sâu vào dạ dày Brolin.

- Cô ấy ở bên bờ sông Columbia, Gary và Paul đứng cách xa để cô ấy được yên tĩnh một lát, và khi bắt đầu lo lắng vì không nhìn thấy cô ấy, họ chạy ra xe cô ấy, nhưng cô ấy không còn đó nữa.

- Họ có thấy một chiếc xe khác lại gần cô ấy không? Hay một người nào đó?

- Không, không thấy gì cả. Gary nghĩ là cô ấy chủ động ra đi, để được yên tĩnh một mình.

- Không, cô ấy không làm thế đâu, Brolin phản bác. Cô ấy biết có một mối nguy hiểm ngầm đang bay lượn trên đầu mình. Phải tìm ra cô ấy. Các anh đã cử người ở phòng thí nghiệm đi lấy dấu vết chưa?

Salhindro đặt một bàn tay thân thiết lên vai anh bạn trẻ của mình.

- Josh, chúng ta sẽ làm việc cần làm. Nhưng tốt hơn hết là anh nên đứng ngoài, được không? Tôi biết anh rất yêu cô ấy, và tôi đã gọi cho tất cả các đội tuần tra. Hẳn cô ấy đang lang thang bên bờ sông Willamette, cô ấy làm chúng ta lo lắng một chút, rồi chúng ta sẽ tìm thấy cô ấy ngay thôi. Ngay khi phát hiện ra cô ấy ở đâu, tôi sẽ báo tin cho anh, và chính anh sẽ tới nói chuyện với cô ấy. Được chứ?

Brolin nhận ra các móng tay của mình đâm sâu vào lòng bàn tay vì anh siết nắm tay quá chặt. Nhưng nếu Juliette không bị giày vò tinh thần, mà đang ở trong tay kẻ giết người thì sao?

Anh không thể ngồi yên chờ xác định thông tin được.

Bỗng Bentley Cotland phá vỡ sự im lặng.

- Đây này, hay quá! Anh thốt lên. Trong danh sách người đặt tạp chí về thú nhồi ở bang Oregon, có một cái tên Milton Beaumont. Địa chỉ: Trang trại Crow, đường Bull Run, hạt Multnomah.

Trong nháy mắt, Brolin mặt cắt không còn giọt máu. Quá nhiều điểm trùng hợp để có thể coi đó không phải là một sự ngẫu nhiên.

Một giây sau, anh đã ở ngoài hành lang, chạy thật nhanh về phía bãi đỗ xe.
 

hoahongden12

Active Member

Ở đâu đó trên thế giới này có một căn phòng cỡ trung bình. Không có lấy một ô cửa sổ, bên trong rất khó nhìn vì những nguồn sáng duy nhất đều mang gam màu nóng. Một bóng đèn neon tím liên tục kêu ù ù, một bể cá to không có cá hắt lên tường thứ ánh sáng mờ ảo màu xanh lục, gần như siêu thực. Đây là một nhà xưởng chuẩn bị và hoàn thành cái chết, hẳn một số người sẽ cho là thế. Hàng chục con thú được nhồi ở đây, được gắn lên tường những dây đèn Noel uốn lượn. Nhưng nhìn thật kỹ, ở trong cùng nhà xưởng còn có những thứ khác nữa. Trên các giá là những cánh tay, những cẳng chân, một nửa thân trên và hai cái đầu cũng rỗng bên trong để có thể lưu giữ lại được. Tất cả đều là của con người.

Các chi này là của một vài kẻ lang thang, mới được lấy về mấy tháng gần đây mà không ai biết cả. Thân thể họ đang làm mồi cho giun trong rừng.

Kẻ bắt các “thần dân” của mình gọi là Chuyên gia thú nhồi đang đứng cạnh Juliette, rất hài lòng khi cho cô xem bản sao của hắn, ở kia, gắn trên bệ, thân nhồi bằng xơ cây, dây thép, xương và thạch cao.

Juliette sững sờ. Rõ ràng là Leland Beaumont đang đứng trước mặt cô, đã chết và được nhồi xác. Không thể nào, vậy thì ai đang đứng cạnh cô? Con người đang nói với cô, đang thở và đi lại là ai?

- Đấy là người yêu của cô, đúng không? Chuyên gia thú nhồi nói với vẻ hơi giễu cợt. Anh ấy nói với tôi như thế. Năm ngoái, anh ấy nói với tôi như thế. Anh ấy nói rằng hai người sắp…

Một nụ cười ngớ ngẩn hiện lên trên khuôn mặt hắn.

- Cuối cùng… cô biết rồi đấy. Nhưng giờ thì anh ấy ở đây.

Chuyên gia thú nhồi cúi đầu xuống vai cô, thấp một cách bất thường, như để chiêm ngưỡng con người đang đứng trên bệ kia dưới một góc độ mới. Hắn bị giày vò trước tình thế nước đôi khó khăn, như thể việc Leland vốn đã chết thật rồi mà vẫn còn đứng kia là không thể.

Juliette bình tĩnh lại, thở nhẹ nhàng hơn và không còn run tay nữa. Cô nuốt một cách khó nhọc và cuối cùng cũng nói ra được một âm rõ ràng.

- Ai… Anh là ai? Cô hỏi trong khi cổ họng bỏng rát.

Chuyên gia thú nhồi quay ngoắt đầu về phía cô, gần như phát điên lên vì cô lại có thể nói được. Trong thoáng chốc, Juliette nghĩ là hắn sẽ đánh cô trong cơn hận thù vượt quá lý trí, nhưng hắn dường như bớt căng thẳng ngay lập tức. Hắn làm như không nghe thấy gì cả và lại ngắm nhìn con người rỗng gắn trước mặt.

- Tôi là Wayne. Wayne Beaumont, hắn rụt rè nói như một đứa trẻ tự giới thiệu về mình ở trường. Còn anh ấy là anh trai của tôi. Leland Beaumont.

Hắn chỉ tay vào bộ da người nhồi.

Juliette cảm thấy đầu cô lại bắt đầu quay cuồng và cô tập trung vào chiếc đèn chiếu nhỏ hắt ánh sáng từ nền nhà lên xác Leland. Cái xác đã được cố định.

- Ồ, đúng là tôi không đạt lắm, nhưng đó là vì anh ấy đã bị hỏng nhiều khi được lấy từ mộ lên. Không phải lỗi của tôi. Tác Phẩm thành công hơn nhiều. Cô có muốn xem không?

Không đợi trả lời, Wayne đi về phía cuối xưởng rồi đẩy cả một mảng tường. Mảng tường trượt trong tiếng kêu lách cách của kim loại, ánh sáng từ từ hắt lên ở phía sau, một cảnh tượng được tính toán hoàn hảo. Vài bóng đèn neon nhỏ màu tím chiếu sáng cái hốc bí mật này, Wayne kính cẩn lùi lại.

Thân hình một phụ nữ được tái hiện nhờ khung dây kim loại, kích cỡ bằng người thật, ngồi trong một chiếc ghế bành bằng mây. Nhưng đặc biệt, cái đầu là thật, một cái đầu người thật được lưu giữ hoàn hảo và đặt trên đỉnh khung sắt. Hai cẳng tay và hai cẳng chân cũng không phải bằng sắt, mà bằng da phụ nữ thực sự. Juliette đã hiểu chuyện gì xảy ra. Một phần của hai nạn nhân bị cắt chi, một bị cắt tay, một bị cắt chân, hiện đang ở đây.

- Đây là Tác Phẩm, Wayne giới thiệu với thái độ thành kính. Đây là mẹ Abigail của tôi. Cái đầu được giữ rất tốt, tôi đã làm ngay những gì cần thiết khi bà ra đi. Nhưng thân thể bà đã bị hỏng nhiều, vì thế tôi tìm các thứ để tái tạo lại. Cô thấy đẹp không?

Trong người Juliette, cơn buồn nôn đang giằng co với bản năng bảo tồn vì bản năng không cho phép để lộ ra bất cứ điểm yếu nào.

Thứ mà cô nhìn thấy trước mặt chỉ có thể là ghê tởm. Sắc tím của đèn neon không đủ để che đi những vết đen ở chân cổ của cái đầu.

Như vậy, Leland có một em trai. Và chúng cùng nhau học cách giết người, không còn nghi ngờ gì nữa, chúng là đồng phạm theo một cách nào đó. Abigail Beaumont đã chết từ nhiều năm nay, Leland đã từng nhìn thấy hình ảnh rùng rợn kia chưa? Chắc chắn là rồi. Nhưng ai trong hai tên là kẻ lôi kéo kẻ còn lại vào vòng xoáy điên rồ này?

- Sắp tới, mẹ tôi sẽ trở về với chúng tôi, Wayne nói tiếp. Mẹ tôi sẽ đi ngược dòng sông chết và sẽ về đây. Linh hồn mẹ tôi sẽ ở đây.

- Các anh điên thật rồi… cô thì thầm, khuôn mặt co rúm lại vì sợ và vì nước mắt.

Wayne nhảy xổ vào cô ngay lập tức, bàn tay hắn đang giơ lên, sẵn sàng điên cuồng giáng xuống, thì bỗng một giọng nói vang lên. Giọng nói vô tính và lạnh lùng như một cái móc ở lò mổ, hoàn toàn bình thản.

- Wayne, không được. Bây giờ không phải lúc.

Giọng nói vang lên từ phía sau. Có tiếng bước chân tiến chậm đến sau lưng Juliette.

- Ồ, không, thưa cô. Nó không điên tí nào.

Một hơi thở nóng hổi bỗng phả vào cổ cô gái, và một tiếng thì thầm chạy dọc theo da để đi vào tai cô:

- Nó chỉ vâng lời tôi thôi.
 

hoahongden12

Active Member

Cánh cửa thang máy vừa mở, Brolin đã lao vụt về phía trước. Lloyd Meats ở ngay sau lưng anh mà khó khăn lắm mới theo kịp.

- Josh, đợi đã, không thể ập tới nhà Milton như thế này được!

Brolin đang mở khóa cửa xe Mustang.

- Tôi sẽ không để xảy ra nguy cơ đó chính là lão ta và Juliette đang ở trong tay lão! Anh vừa hét to vừa chui vào xe.

Meats đập vào nóc xe và miễn cưỡng ngồi phịch vào ghế trước.

- Tốt nhất là anh xuống đi, Brolin ra lệnh.

- Nếu anh phải đấm nhau với Milton Beaumont, thì tôi cũng thích có mặt. Đi thôi.

Cỗ máy gầm rú như điên trong các đường ngầm và bánh xe rít lên trên mặt đường nhựa khi chiếc xe Mustang lao đi trong đám khói cao su cháy.

- Hy vọng là anh ý thức được rằng chúng ta không có lệnh bắt giam, việc anh sắp làm là bất hợp pháp, Meats nhắc nhở. Không bắt được quả tang!

- Trừ khi Juliette có ở đó.

- Thế thì đội đặc nhiệm phải can thiệp, đó là việc của họ, không phải của chúng ta!

- Lloyd, anh biết rất rõ rằng họ không thể đến hiện trường được trước một tiếng. Tôi có linh cảm xấu.

Phó Phòng điều tra tội phạm gõ dồn dập vào mặt bảng điều khiển, miệng lầm bầm. Anh chỉ yên tâm một nửa khi thấy chiếc xe tuần tra đang lao nhanh bám theo họ với Salhindro ngồi sau vô lăng.

Cỗ máy V8 phóng vù vù như tên lửa khi vượt quá tốc độ 180 km/h trên đường liên bang số 84. Chưa đầy hai mươi phút sau, họ đã tới thác Multnomah tuyệt đẹp và rời khỏi đường liên bang để đi vào những con đường nhỏ hơn, nguy hiểm hơn, ngay sát bờ vực.

Họ rời khỏi trụ sở cảnh sát trung tâm được nửa tiếng thì điện thoại di động của Lloyd Meats đổ chuông. Bentley Cotland gọi tới, anh vẫn tiếp tục tìm kiếm qua Internet. Meats bật loa điện thoại để Brolin tham gia được vào câu chuyện.

- Thanh tra Meats, tôi tìm được một thông tin không thể tưởng tượng nổi! Bentley phấn khích kêu lên. Tôi tìm trên Newsweb với từ khóa là tên của bố mẹ Leland. Tôi muốn nói bố mẹ thật sự của hắn, Kate và Stephen Phillips. Tôi tìm được một bài báo ra tháng Bảy năm 1980. Người ta cho biết nhà Phillips có một cậu con trai nhỏ tên là Josh, giống như thanh tra Brolin, và thằng bé bị bắt cóc trong một siêu thị. Anh hiểu không? Họ đã gửi đứa con đầu của họ vào một trung tâm bảo trợ xã hội khi nó vừa chào đời năm 1976, và giữ lại đứa con thứ hai để nuôi, nhưng bốn năm sau, đứa thứ hai này lại bị bắt cóc!

Đột nhiên, một mảnh ghép nữa lồng khít vào bức tranh.

- Bentley, có thấy nói là tìm thấy xác của đứa bé không? Brolin hỏi.

- À… không, người ta chỉ nói bị bắt cóc, nhưng chưa bao giờ tìm thấy xác cả.

Brolin chửi thề và kêu lên:

- Hiển nhiên rồi! Chuyện này lý giải cho mẫu ADN.

- Gì cơ? Lý giải cho cái gì? Meats hỏi.

- Hãy suy luận đi: Kate Phillips mang bầu, không may lại sinh đôi. Vì những lý do cá nhân, Kate và Stephen Phillips gửi một trong hai đứa bé cho trung tâm bảo trợ xã hội năm 1976. Hai năm sau, nhà Beaumont đã nhận chính đứa bé này làm con nuôi. Năm 1980, đứa bé thứ hai, đứa mà nhà Phillips giữ lại, bị bắt cóc. Hoàn toàn có khả năng nó vẫn còn sống.

- Thế thì có mối liên hệ gì với ADN?

- Carl DiMestro đã nói rằng mẫu ADN của một người là duy nhất, trừ trường hợp anh em sinh đôi cùng trứng.

- Anh muốn nói là Leland chết thật rồi, nhưng chính em sinh đôi của hắn đã gây ra án mạng?

- Sao lại không chứ? Dễ chấp nhận hơn chuyện người chết sống lại, anh thấy thế không?

Meats nhún vai.

- Vậy thì thật điên rồ! Anh lý giải thế nào về chuyện bị bắt cóc qua nhiều năm mà không được tìm thấy? Mà tại sao hắn lại làm thế? Để trả thù cho anh trai ư? Không phù hợp!

Brolin tăng tốc, đèn pha của chiếc Mustang xuyên thủng màn đêm với tốc độ thách thức các luật lệ an toàn.

Thay vì trả lời lan man về các giả thiết vô bổ, Brolin chỉ im lặng, tập trung vào đường sá. Phải nhanh chóng hành động.

Chiếc xe tuần tra do Salhindro cầm lái đã bị bỏ xa từ lâu, nó phải mất thêm mười phút nữa mới tới được nhà Milton Beaumont. Vì thế họ sẽ chỉ có hai người.

Vài phút sau, chiếc Mustang vượt qua một bức tường dương sỉ để tiến đến gần hang ổ của Milton. Trước khi đèn pha kịp làm họ bị lộ, Brolin tắt tất cả và đậu xe giữa đám bụi cây nhỏ.

Tay cầm đèn pin và khẩu Glock, anh đi lên đường. Meats ra khỏi xe, khi thấy anh bạn đồng nghiệp đi xa dần với khẩu súng trong tay, anh cũng làm như vậy và thở dài.

Đi trong bóng tối không hề dễ dàng, rất nhiều đá lổn nhổn, đám cành cây ranh ma luôn sẵn sàng móc vào mắt cá chân. Hai thanh tra mỗi người đi theo một lối mòn và sải bước thật dài. Một con chim lợn hú lên khi họ đi qua, khiến Brolin nhớ lại thú huấn luyện chim săn mồi của Leland. Anh hy vọng là con chim kia không được huấn luyện để báo động mỗi khi có người đến, mặc dù với anh chuyện đạt đến mức độ thuần hóa đó là rất khó.

Một chút ánh sáng nhợt nhạt hiện ra ở chỗ ngoặt gần một cây thông Douglas to.

Khi lại gần, hai thanh tra nhận thấy ánh sáng đó phát ra từ một ngôi nhà. Thật ra, họ đã nhanh chóng tới nơi tập hợp các xe moóc, các khúc gỗ tròn, tôn và đá xây tường tạo nên “điền gia” Beaumont. Một ô cửa sổ gần cửa trước – nhưng liệu đó có phải là cửa trước duy nhất không? – tỏa ánh sáng mờ nhạt ra bên ngoài. Brolin ra hiệu cho đồng nghiệp của mình rằng anh sẽ đi vòng đằng trước, còn Meats đi vòng đằng sau. Anh định ra lệnh cho Meats phải thận trọng và chú ý đề phòng chó, nhưng rồi anh chọn cách giữ nguyên sự im lặng. Vả lại, chẳng có gì chứng tỏ ở đây có chó cả, dù sao thì những sợi lông tìm thấy ở nhà Camelia cũng thuộc họ nhà chó, nên có thể chúng là của một con cáo nào đó mà tên giết người vừa mới nhồi da. Lần đến đây gần nhất, Brolin cũng không thấy dấu hiệu gì của chó cả.

Anh chạy hết tốc lực, đi từ chỗ vỏ ô tô tới thùng phuy đầy nước mưa được đậy kín, rồi ra đến cửa. Anh đánh liều nhìn nhanh vào bên trong bằng cách nhô đầu lên trước ô cửa sổ.

Căn phòng hẹp nhưng dài, được chiếu sáng bằng một chiếc đèn bão đặt trên bàn. Không có ai cả.

Brolin xoay nắm cửa bước vào. Cánh cửa chống muỗi rít lên khi đóng lại sau lưng anh, anh vội nấp ngay sau một chiếc ghế bành tồi tàn. Trong ba giây, anh đã ở phòng tiếp theo, mũi súng chĩa xuống đất nhưng sẵn sàng nhả đạn. Trong bếp cũng không có ai. Brolin đi tiếp, hai thái dương giật giật.

Anh vào một phòng ngủ.

Chiếc giường rộng, phủ một tấm chăn len dường như không hề được thay từ nhiều năm nay. Có một cái tủ và một cái gương, trên tường không có gì ngoài một cây thánh giá dài treo trên đầu giường. Căn phòng buồn tẻ và không sự sống, thế nhưng Brolin tin chắc đây là phòng ngủ của Milton. Anh im lặng lại gần chiếc giường, đi vòng quanh nó để nhìn qua cửa sổ.

Có điều gì đó không ổn. Điện sáng, nhưng lại không có dấu vết nào của Milton.

Trừ khi lão nghe thấy tiếng chúng ta đến và đang lặng lẽ kiên nhẫn chờ đợi trong một xó xỉnh, cho tới lúc một trong hai chúng ta đi qua và lão sẽ dùng que cời lửa và giáng cho chúng ta một phát vào đầu!

Bên ngoài không có gì. Với lại trời tối quá nên không nhìn thấy gì cả. Brolin quay nửa vòng và chợt dừng lại. Anh quay đầu sang bên phải và nhìn thấy thứ mà ánh mắt anh chạm vào. Góc của một tờ giấy được giấu giữa tấm đệm và giát giường. Anh kéo nó ra, đây là các bản sao chép lại những bức vẽ của Botticelli trên khổ giấy A4.

“Địa ngục” của Dante.

Rất nhiều bản in li tô nhỏ màu nâu đỏ minh họa cho chín tầng địa ngục.

Brolin quỳ xuống, lùa tay vào sâu hơn dưới tấm đệm. Các ngón tay anh chạm vào một bề mặt cứng. Anh kéo ra một cuốn sách đã cũ nát. Một cuốn sách cổ, tinh xảo, bìa bọc da. Brolin mở trang đầu tiên, tựa sách hiện ra trong kiểu chữ gotic: Necronomicon. Một cuốn sách thánh về ma thuật.

Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa.

Milton Beaumont là một kẻ điên rồ.

Nhưng là một kẻ điên rồ vô cùng quỷ quyệt.
 

hoahongden12

Active Member

Hơi thở nóng hổi phả vào khắp cổ Juliette.

- Wayne, con yêu. Làm ơn để chúng ta yên một lúc.

Giọng nói ngọt ngào nhưng đầy uy quyền, Juliette hiểu rằng nếu không vâng lời, Wayne sẽ hối tiếc ngay lập tức.

Wayne đung đưa người, chần chừ. Rồi hắn cắn mạnh môi dưới và đi ra. Cánh cửa khẽ khép lại.

- Cuối cùng chỉ còn lại chúng ta.

Một bàn tay đặt lên vai Juliette. Những ngón tay xương xẩu bắt đầu vuốt ve cô.

- Tôi thường tự hỏi không biết việc đó có tác động như thế nào tới tôi, giọng nói cất lên. Đôi khi tôi định tới thăm cô, nhưng chưa bao giờ quyết định được. Thật may mắn khi tối nay Wayne lại có mặt ở nhà Leland. Thật ra, nó hay tới đó, mặc dù tôi nói với nó rằng rất nguy hiểm. Nó có thể bị tóm.

Juliette cảm thấy các ngón tay lùa vào áo cô, chạm vào da cô và sờ nắn vai cô. Cô muốn nghiến răng, nhưng hàm cô đau không thể chịu nổi. Tuy nhiên, cô cũng gom đủ dũng cảm để nói, mặc dù rất chậm:

- Ông… muốn gì… ở tôi?

Cho dù không nhìn thấy lão ta, Juliette vẫn nghe thấy tiếng môi nhếch lên ngay cạnh mình, tiếng miệng trề dài ra trong một nụ cười tàn bạo. Bàn tay lần xuống dưới, vuốt ve dây áo lót của cô.

- Cô thấy không, tôi không yêu cầu gì quá đáng cả. Một chút sung sướng và người ta để cho tôi yên.

Lão ta, giờ đây Juliette đã chắc chắn rằng đó là một người đàn ông, lão ta nói ra điều này như thể người ta nói rằng muốn một điếu thuốc lá. Thực sự đơn giản. Lão ta vẫn tiếp tục giọng điệu đó, tình thế không khiến lão ta dao động.

- Vợ tôi và tôi đã nhận Leland làm con nuôi năm 1987, ở Arcadia, bang Florida. Tôi nghĩ là cô sẽ thấy rất bình thường khi chúng tôi thử tìm hiểu thêm về gia đình ruột của nó, chúng tôi muốn quan tâm đến đứa bé. Hiểu nó. Thế là chúng tôi phát hiện ra rằng cô Kate vô tích sự đó sinh được hai đứa. Hai thằng bé sinh đôi. Nhưng vì sợ không thể nuôi nổi một lúc cả hai thằng bé, cô ta đã chọn một đứa để bỏ đi. Cô có hiểu không? Ở nước Mỹ có loại người đó, tôi thề đấy!

Bàn tay lần xuống dưới, các ngón tay thô nhám lướt trên áo lót của cô, sờ nắn bộ ngực đang nhô lên dưới hơi thở run rẩy của Juliette. Cô nhắm mắt lại, một giọt nước mắt lăn trên má.

- Làm sao chúng tôi có thể để thằng bé đó sống với loại bố mẹ như thế được? Giọng nói lại cất lên. Leland xứng đáng được có em của nó ở bên cạnh. Thế là chúng tôi bắt cóc thằng bé. Ôi, chuyện này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nó phải sống chui lủi. Với lại chúng tôi chuyển nhà rất nhiều lần. Có thời kỳ, nó thậm chí phải ngủ trong hầm, gần nồi hơi, nhưng nói chung, chúng tôi biết cách đem lại cho nó tình yêu mà nó đáng được hưởng.

Các ngón tay tìm thấy nụ hoa, chúng bắt đầu vê tròn và bóp nhẹ. Giọng nói tiếp tục bình thản cất lên:

- Thằng Wayne đáng thương đã phải chịu nhiều khổ sở, tôi thừa nhận. Vợ tôi rất nghiêm khắc với các con, nhưng bà ấy làm chủ được tình thế. Wayne sống trong bóng tối, chưa bao giờ có ai biết là nó tồn tại cả. Và vì nó giống Leland như hai giọt nước, nên người ta dễ nhầm chúng với nhau. Vợ tôi và tôi đã dạy nó mọi điều. Tất cả những gì nó biết đều là nhờ chúng tôi. Đúng thế, đúng thế.

Bàn tay ấn mạnh hơn chút nữa vào ngực Juliette. Lão ta dùng tay kia chỉ vào hình nộm phụ nữ ngồi trong hốc tường.

- A, thì ra Wayne đã cho cô xem Tác Phẩm của chúng tôi. Làm rất tốt, đúng không? Nó có giải thích cho cô chuyện gì sẽ xảy ra không?

Bàn tay đột ngột bóp nghiến lấy ngực, khiến Juliette kêu lên vì đau đớn.

- Không, cô định nói thế chứ gì? Vậy thì nên biết rằng cô đang đối diện với người đã xuyên thủng bí mật về sự bất tử. Phải, tôi đảm bảo với cô đấy. Tôi được dạy dỗ bằng Thần khúc của Dante. Đó là một tác phẩm thần thánh chứa đựng con đường của đức tin và của những điều kỳ diệu. Cô biết không, khi đọc đi đọc lại, tôi đã khám phá ra tất cả những bí mật nho nhỏ của nó. Viết rất rõ ràng, nhưng phần lớn mọi người không biết đọc các tác phẩm thần thánh. Dante giảng giải cho chúng ta về việc ông ấy đã đi qua chín tầng Địa ngục như thế nào, đã đến nơi chuộc tội ra sao để tìm được nàng Béatrice. Và chính nàng chỉ cho ông ấy đường tới Thiên đường. Tuyệt vời! Đúng không?

Lão ta lại bóp mạnh lên ngực Juliette khiến cô phải rên rỉ.

- A, cô cũng thấy thế ư? Vậy thì bây giờ cô hiểu rồi chứ? Chúng tôi đang khôi phục thân thể của vợ tôi, từng mảnh một, chúng tôi chọn những mảnh giống thật nhất. Ôi, không dễ dàng cho lắm, nhưng chúng tôi làm được, chỉ cần rất kiên nhẫn giở các cuốn catalogue. Đúng là chúng thường được dùng vào việc này, phải không? Trong một xã hội như xã hội của chúng ta, tất cả đều được rao bán, và các cuốn catalogue là để chúng ta mua hàng, phải không?

Juliette cắt ngang và thì thầm một lời đồng tình không rõ ràng.

- Thế là dần dần, chúng tôi thu thập các bộ phận để tạo nên thân hình mới cho Abigail của tôi. Vì chỉ có thể xác chết, còn linh hồn thì không. Nó đi xuống Địa ngục, tới nơi chuộc tội hoặc lên Thiên đường, nhưng nó bất tử. Wayne và tôi hiến sinh một linh hồn ở mỗi tầng Địa ngục, như vậy chúng tôi tới được dòng sông chết Acheron, qua từng tầng một, chúng tôi sẽ tới được với linh hồn Abigail. Thân thể mới sắp hoàn thành và chúng tôi sẽ tìm lại được linh hồn bà ấy. Thế là bà ấy trở về với chúng tôi. Vì dần dần, sông Acheron đưa chúng tôi tới Léthé, dòng sông mê lú, nơi các linh hồn vượt qua đỉnh núi chuộc tội và trở nên trong sạch thoát khỏi mọi tội lỗi. Ở đó, Abigail sẽ đợi chúng tôi với sự trong trắng và thanh khiết, sẵn sàng về với chúng tôi trong thể xác mới mà chúng tôi đã chuẩn bị cho bà ấy.

Còn tồi tệ hơn một cơn ác mộng, Juliette thấy những tia hy vọng cuối cùng biến khỏi cô. Những con người này thật sự điên rồ. Chưa bao giờ cô nghĩ điều này lại có thể xảy ra. Người ta có nói tới những gia đình kỳ quặc ở các nơi khỉ ho cò gáy trên đất Mỹ, nhưng vẫn còn xa với sự thực. Sự thực là những kẻ điên rồ không chỉ có trong nhà thương điên. Suốt cuộc đời mình, chúng ta bước đi trên vỉa hè của một thành phố lớn và từng gặp những người đàn ông hoặc phụ nữ rất bất ổn, rối loạn. Nhưng chúng ta không biết. Chúng ta không thấy họ, cho dù họ vẫn tồn tại, đôi khi ở rất gần chúng ta.

- Ôi, không phải lúc nào cũng dễ dàng đâu, lão ta nói tiếp, đi khắp Địa ngục thật khó khăn và lâu lắc. Và khi không thể chịu đựng được nữa, tôi nhớ tới sự nản chí của Dante và những lời động viên của người dẫn đường Virgine để giúp ông ấy tiếp tục con đường của mình.

Juliette nghe thấy tiếng khớp xương kêu răng rắc. Rồi lão ta bình thản ngâm thơ:

“Hãy dậy đi: chiến thắng nỗi lo sợ

Bằng trí óc, chiến thắng mọi trận chiến

Nếu nó không hoảng hốt vì gánh nặng thân xác.”

Bể cá phát ra một tiếng ục to, một bóng khí nổi từ đáy lên mặt nước như thể nó bỗng hoảng sợ khi nghĩ tới điều sẽ diễn ra tiếp theo.

- Khúc XXIV của “Địa ngục”.

Một khoảng im lặng dài trong căn phòng tối tăm. Rồi con người có bàn tay xương xẩu hỏi bằng giọng rít lên, gần như thì thầm:

- Thế nào, cô tưởng tôi và Wayne bị điên sao?

Juliette lắc đầu, cô muốn nói, nhưng cảm xúc vỡ vụn trong cô như một vòng xoáy các mâu thuẫn.

Bàn tay thả ngực cô ra, lão ta đến đứng trước mặt cô.

- Mở mắt ra.

Juliette cảm thấy mối đe dọa trong mệnh lệnh, cô chọn cách vâng lời. Mi mắt cô mở ra.

Lão ta đang ở trước mặt cô. Quỳ gối.

Khuôn mặt lão ta hằn vết thời gian, những vết nhăn dài trên má giống như vết sẹo. Mặt lão ta dài, cằm nhô về phía trước, nom lão ta giống như tranh biếm họa về một pharaon. Mắt lão ta rất nhỏ, ẩn sau trong hốc mắt. Từ đó lóe ra một tia độc ác.

- Cô biết đấy, Leland tiến hành các thử nghiệm bảo quản, nói cách khác, nó kiểm nghiệm các phương pháp của chúng tôi. Người tiên phong trong công việc của chúng tôi. Nó đã thử với các cẳng tay vì đó là thứ dễ cắt nhất, trong khi chờ đợi chúng tôi hoàn thiện cách làm và chuyển sang những bộ phận quan trọng. Để giải thích cho cô cách nó chọn các người mẫu của nó, thì tôi không biết gì cả, thành thực mà nói, điều đó chẳng có gì quan trọng! Những cô gái đó chỉ là búp bê, là vật thí nghiệm. Nhưng tôi có thể nói với cô rằng nó rất hài lòng về cô bạn mà nó đã làm quen trên internet, nó nói thế. Cho tới ngày cô ta nói không với nó.

Lão ta lắc đầu, hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt thất vọng.

- Cô ta đã từ chối tình bạn của nó. Cô có tưởng tượng được không? Tôi đã khuyên nó kiên nhẫn, nhưng… không. Quá muộn rồi, niềm vui đã bị vấy bẩn. Nó tới bắt cóc cô, nó đã tặng cho cô tất cả tình cảm, còn cô… Cô, cô đã làm nó chết. Vì thế, không, tôi nói cho cô biết, không có chỗ cho cô trong tác phẩm của chúng tôi đâu.

Không một cảm xúc nào biểu hiện trên nét mặt lão ta, cũng như trong mắt lão.

- Tôi nghĩ rằng vợ tôi không thể tha thứ điều này.

Hắn giơ một bàn tay lên và Juliette cảm thấy một mũi dao sắc nhọn ấn sâu vào trán cô, vẽ một hình thù kỳ dị vào thịt cô.
 

hoahongden12

Active Member

Brolin thấy Lloyd Meats trong bếp.

- Không có gì ở đây cả, Brolin nói và chỉ vào cánh phía Tây của ngôi nhà.

- Bên kia cũng chẳng có gì. Anh có nghĩ là lão ta ở bên ngoài không?

Brolin nhún vai. Milton chỉ quanh quẩn đâu đây, anh tin chắc như thế.

- Có lẽ lão ta có một cái hầm ở đâu đó trong nhà, Brolin nhận xét. Anh có thấy một nắp hầm hay một cầu thang ở đâu không?

- Không, chẳng thấy gì cả.

- Ok, chúng ta ra ngoài thôi.

Ra đến bên ngoài, Brolin vã nước mưa đựng trong thùng phuy bằng thép lên mặt.

Nhất định phải có một nơi mà họ không nhìn thấy.

Tất cả các vụ phạm tội đều được thực hiện ở những nơi cách biệt, có rừng ngay cạnh, kẻ giết người hẳn sẽ tìm cách tái tạo một không khí mà hắn biết, khiến hắn yên tâm, để có thể chuyển sang hành động. Ở đây rất phù hợp. Còn gì nữa nhỉ? Chặt các chi. Việc này không cần thiết, không phải là hành động tra tấn. Những hành động đó là vô cớ, tượng trưng cho sự thù hận mà những người phụ nữ ấy mang lại cho kẻ giết người. Tại sao hắn lại thù hận họ? Vì hắn sợ, hắn không thể tiếp cận họ được họ thường chạy trốn hắn ư? Có phải một người phụ nữ đã gây cho hắn nhiều đau khổ?

Brolin suy đi xét lại những ý nghĩ này, hy vọng tìm ra một yếu tố quan trong. Một phút sau, anh sững người.

- Này, Lloyd. Mẹ của Leland chết như thế nào?

- Bà ấy đánh nhau với một bà hàng xóm, hình như bị chém bằng dao.

Kẻ giết người căm thù phụ nữ vì họ trốn tránh hắn và vì họ tượng trưng cho cái chết của mẹ hắn… Người phụ nữ duy nhất hắn biết là mẹ hắn, nhưng bà ta đã bị một phụ nữ khác giết chết.

Lập luận này có thể đúng, mặc dù rất kỳ cục, đây là một sơ đồ mà Brolin từng gặp nhiều lần trong những vụ liên quan tới rối loạn tâm thần.

- Ở đâu? Anh hỏi. Họ chém nhau ở đâu?

Meats nhíu mày.

- Tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ là không xa nơi này, ở sâu hơn trong rừng, người đàn bà kia sống ẩn dật và hơi điên.

Brolin bắt đầu tìm kiếm xung quanh. Anh bật đèn pin và soi vào các bụi cây gần khoảng rừng thưa, để tìm một lối đi. Nếu anh không nhầm, Milton hẳn thường tới đó, như một nơi thiêng liêng, một nơi nhập định, vì thế có lẽ phải có một lối mòn.

Một lát sau, Meats vội lùi lại.

- Josh, Meats thì thầm, có người đến!

Họ cùng ngồi thụp xuống bãi dương xỉ và theo dõi. Một cái bóng khá to hiện ra trên đường dẫn vào nhà. Brolin nhận ngay ra Salhindro.

- Đấy là Larry, anh nói. Ra chỗ anh ấy đi, bảo anh ấy giúp chúng ta tìm đường mòn.

Meats đứng dậy đi tới chỗ người cảnh sát mặc sắc phục.

Brolin lại tiếp tục quét đèn pin vào đám cây cỏ.

Càng tìm kiếm, hy vọng tìm thấy càng giảm đi.

Bỗng nhiên, nó bất ngờ hiện ra.

Một đường đen trong bóng tối.

Không để mất thêm thời gian, Brolin chui vào giữa đám cây và bắt đầu chạy. Anh biết rằng mỗi giây đều có thể rất quan trọng, mỗi quyết định đều có thể phải trả giá đắt. Và cái linh cảm xấu kia vẫn luôn giày vò anh.

Anh chạy nhanh tới mức không còn biết rõ chân mình đặt vào đâu, anh chỉ chạy theo con đường đất trước mặt, không biết gì hơn nữa.

Được khoảng năm trăm mét, căn nhà tồi tàn hiện ra sau một khóm cây rậm rạp. Nhà làm bằng gỗ, phủ đầy rêu, không cửa sổ, chỉ có một cửa ra vào duy nhất.

Đó là một thứ nhà ngục rộng, một thứ nhà bằng gỗ dựng giữa nơi heo hút. Chắc là nơi ở của bà hàng xóm điên rồ đã đánh nhau với vợ của Milton Beaumont. Nhìn thấy căn nhà tồi tàn kỳ dị này, Brolin biết rằng đây chính là nơi đứa trẻ sinh đôi đã sống trong bí mật. Giữa rừng.

Anh lặng lẽ tiến lại gần, cố nén hơi thở gấp gáp của mình.

Cành cây đập vào đầu Brolin và gãy đôi.

Brolin ngã vào vũng bùn, đánh rơi khẩu súng. Anh nghe thấy tiếng kẻ tấn công mình nhảy lên ở sau lưng, chỉ cách một hoặc hai mét, nhưng anh không kịp nhặt khẩu súng, nó ở xa quá. Anh lăn tròn để nhìn trực diện kẻ tấn công, hắn đã nhảy xổ vào anh, tay hắn cầm một con dao hai lưỡi.

Giống hệt kiểu vũ khí mà kẻ giết người đã sử dụng, anh vẫn kịp nhận xét.

Mặt hắn áp sát mặt anh, và Brolin không nén nổi ngạc nhiên.

Đó chính là Leland Beaumont. Vẫn những đường nét ấy.

Lưỡi dao thọc vào giữa mạn sườn anh.

Cơn đau nhói không làm anh cứng người, ngược lại, đang trong cơn giận dữ, anh móc mạnh vào hàm hắn. Hắn lăn sang bên cạnh. Brolin đặt một bàn tay lên vết thương và ấn chặt, còn tay kia chống xuống để có thể đứng dậy một cách nhanh nhất. Vừa đứng lên, anh lại bị một hòn đá ném mạnh vào vai, đúng bên vai bị thương khi ở xưởng phá dỡ xe. Anh vừa kịp nhận ra thì Leland – hay kẻ giống hắn một cách kỳ lạ – đã ở gần anh. Nhưng Brolin tránh được nhát dao và dồn hết sức lực vào cú đấm trúng tai địch thủ. Không nghĩ ngợi lâu, anh thanh tra trẻ bồi thêm một cú huých đầu gối vào bụng hắn, và một cú đấm nữa khiến em sinh đôi của Leland ngã vào vũng bùn.

Nhưng hắn rất lì đòn, đời hắn phải chịu toàn thách thức và thử thách, vì thế hắn có đủ sáng suốt để phát hiện khẩu Glock trước khi Brolin kịp chộp lấy. Hắn siết chặt các ngón tay trên báng súng và đặt ngón tay trỏ vào cò súng . Lẫy an toàn đã mở, vì trước đó Brolin không muốn mất thời gian mở lẫy nếu phải nổ súng ngay.

Họng súng chĩa vào đầu Joshua Brolin.

Tiếng súng đập vào đám lá cây ẩm ướt, tiếng vọng của nó sẽ còn đập nhiều lần nữa vào các thân cây trong rừng để loan tin đổ máu.

Lloyd Meats đứng trên một tà luy, cách đó vài mét, súng vẫn còn bốc khói.

Thấy bàn tay gã em sinh đôi của Leland trở nên mềm nhũn và rũ xuống, Brolin hiểu rằng mình vẫn còn sống. Anh thấy lấp ló cái đầu của người bắn súng và biết rằng Lloyd Meats vừa cứu sống anh.

Một tiếng thét cầu cứu vang lên từ căn nhà gỗ. Đó là Juliette. Tiếng kêu im bặt ngay lập tức.

Brolin lao về phía trước, chộp lấy khẩu súng của mình trong bàn tay chết và đạp cửa xông vào, không cần thận trọng nữa.

Juliette bị trói vào một cái ghế ở giữa phòng.

Một vết đen hiện lên trên áo cô. Rồi nó loang nhanh đến chóng mặt. Brolin hiểu ngay.

Máu Juliette loang đẫm trên áo pull từ một vết há miệng ở họng.

Anh gào lên.

- Không!!!

Milton đứng cạnh cô, lưỡi dao cạo vẫn còn nóng trên tay, nhỏ máu xuống nền nhà. Một nếp nhăn thù hận hằn sâu khiến khuôn mặt lão ta biến dạng. Lão ta muốn nhảy về phía trước, về phía người cảnh sát đang đe dọa lão, nhưng bị chặn ngay bằng một viên đạn xuyên qua xương đòn làm lão ngã lăn vào các thùng nước muối.

Một giây sau, Brolin đã ở cạnh Juliette. Quên mất cảm giác đau đớn từ vết thương của chính mình, anh vứt súng xuống nền nhà và đặt cả hai tay lên cổ cô, hy vọng ngăn được máu trào ra.

Cô đã mất phần lớn máu trong người, người cô bắt đầu run lên.

Nước mắt trào ra trên má anh thanh tra, bàn tay anh không thể ngăn được dòng máu chảy xối xả từ vết thương rất rộng.

- Không, Juliette… ở lại với anh… không… em phải ở lại…

Cô cố nói điều gì đó, nhưng không âm nào thoát ra được. Mắt cô nhìn vào Brolin.

Cô biết rằng tất cả đã kết thúc.

Cô nhìn anh với một sức mạnh không thể tin nổi và nụ cười hiện ra trên môi cô.

Tất cả mọi thứ nổ tung xung quanh Brolin, các bức tường của lý trí vỡ vụn dưới sức ép của nỗi đau, nước mắt tuôn trào trên mặt anh.

Rồi ánh mắt Juliette bỗng trở nên sáng một cách đặc biệt, tất cả các cảm xúc rời khỏi con ngươi và tan biến vào hư không.

Trong một giây, cuộc đời anh tan biến trong tính khắc nghiệt của sự vĩnh cửu.

Brolin vùi mặt mình vào phần cổ đẫm máu của cô.

Có người ở cạnh anh. Đó là Milton đang rên rỉ.

Cơn điên dại nổi lên trong đầu anh thanh tra trẻ như một tấm màn đỏ. Anh nhặt khẩu Glock và túm lấy cổ áo Milton để chĩa nòng súng vào răng lão ta.

- Đừng, Josh!

Đó là Salhindro.

- Nếu làm thế, anh sẽ không được gì cả. Anh sẽ tránh cho hắn nỗi nhục về vụ án và cả nhà tù nữa. Chỉ thế thôi.

Bàn tay Brolin run rẩy, mắt anh nhòa đi.

Milton mở mắt. Đó không còn là đôi mắt của một con người ngu ngơ chậm chạp nữa, mà là ánh mắt của một con chim săn mồi hung dữ. Một con quái vật khi cười để lộ ra những chiếc răng nanh nhỏ màu trắng đã lão luyện trong nghệ thuật ăn thịt.

Máu Juliette dính vào mặt Brolin, giống như cái vuốt ve cuối cùng mà cô tặng cho anh, chút hơi ấm cuối cùng của người anh yêu.

Brolin chớp mắt.

Trong cơn điên dại, anh thấy một tấm màn lửa đỏ sẫm nổ lốp đốp trong con ngươi của tên quái vật.

- Đặt súng xuống đi, Josh, Salhindro nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết.

Ngón trỏ trên cò súng, Brolin nhìn xoáy vào mắt Milton Beaumont.

Những ngọn lửa càng nhiều thêm giống như ở giữa lòng Địa Ngục.
 

hoahongden12

Active Member

Ba tuần trôi qua.

Lloyd Meats vứt mẩu sandwich còn lại vào thùng rác. Anh xỏ áo vest và quyết định đã đến lúc trở về nhà với vợ. Anh đã chán ngấy vì suốt cả ngày phải giải quyết mấy vụ việc bẩn thỉu thanh toán lẫn nhau giữa các băng đảng thiếu niên.

Anh đi ra hành lang và châm một điếu thuốc lá.

- Ổn không, Lloyd?

Salhindro tới chỗ anh với một lon Pepsi trên tay.

- Ổn… Tôi bắt đầu phát chán các vụ giết chóc ngu xuẩn rồi.

Salhindro nuốt một ngụm xô đa.

- Đừng nói thế. Nếu không làm cảnh sát thì anh sẽ làm gì?

- Thám tử tư. Tôi lúc nào cũng muốn làm thám tử tư. Anh được trả tiền để chụp ảnh về các vụ ngoại tình, tóm lại là anh liên tục được rửa mắt.

Hai người cùng cười thoải mái.

- Còn Milton? Lão ta đã thú tội chưa? Salhindro hỏi.

- Chưa. Lão ta vẫn chưa nói gì. Nhưng chúng ta đã tìm được rất nhiều yếu tố, nhất là đất xung quanh nhà lão ta, chính là loại đất được tìm thấy trong vết chân ở hiện trường vụ giết Elizabeth Stingger. Vết chân trùng khớp hoàn toàn với một chiếc giày của Wayne Beaumont. Bên bào chữa sẽ dựa vào đây, họ sẽ kết tội Wayne đã gây ra các vụ giết người và tố là thiếu chứng cứ về sự có mặt của Milton, họ sẽ cho là lão ta đần độn, không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nhưng với tất cả những thứ tìm thấy ở nhà lão, chưởng lý sẵn sàng kết tội lão đồng phạm trong vụ giết Elizabeth Stinger và Anita Pasieka, và vụ giết… giết Juliette.

Nói ra được tên cô lúc nào cũng khó khăn, trước hết cần phải khai thông dòng cảm xúc mà tên cô gợi ra.

- Thế sao? Salhindro bất bình. Lão ta giết người, tàn sát, thế mà chúng ta lại không biết được vì sao lão ta làm như thế ư?

- Larry, lão ta là một con quái vật. Một kẻ giết người hàng loạt kinh khủng nhất. Ngay cả khi lão ta nói ra tất cả những gì lão ta biết thì cũng phải rất thận trọng. Loại người này không giống chúng ta. Lão ta luôn nói dối, thao túng, thú vui duy nhất của lão ta là cảm thấy ở trên tầm chúng ta.

- Quái vật ư? Lão ta nhận một đứa trẻ làm con nuôi, bắt cóc em sinh đôi của nó và nuôi dạy trong bí mật, biến chúng thành những kẻ giết người tàn bạo. Nhưng tại sao mới được chứ? Tại sao Milton lại đi đến chỗ làm như vậy? Hãy tưởng tượng là lão ta bị bố đánh, bị lạm dụng tình dục, vân vân, sau đó thì sao? Tại sao người ta lại làm thế với lão ta? Bố lão ta cũng bị lạm dụng tình dục và bị đánh ư? Tức là sự việc không có kết thúc, đó là một vòng xoáy thù hận và bạo lực không có khởi đầu, cũng không có điểm kết? Đâu là khởi thủy của việc những con quái vật ấy thành hình? Cái ác giáng xuống một con người như thế nào? Anh cho là nó tồn tại trong tất cả chúng ta, giống như một phần của bóng tối mà người ta đều mang trong mình dù ít hay nhiều ư?

Meats nhún vai.

- Lão ta là người tàn ác, lão ta giết người mà không cần lý do gì hay sao? Salhindro nhắc lại như không muốn tin vào điều này.

- Lý do ở bên trong lão ta. Đó là một phần của lòng người mà người ta không bao giờ chạm tới được. Nếu làm được việc đó, thì chúng ta đã không còn là con người, mà là những cỗ máy. Mỗi người đều có những bí mật của riêng mình, và bản chất của chúng quyết định việc anh sẽ là người tốt hay ngườixấu, hay vừa có mặt tốt, vừa có mặt xấu. Tôi không biết nữa.

Cửa thang máy mở, hai đồng nghiệp vừa bước ra vừa chào họ.

- Đừng nói kiểu như vậy, buồn lắm, Salhindro nói và ấn nút tầng hầm thứ hai.

Họ cùng im lặng cho tới khi thang máy lại dừng.

- Thế còn Brolin, anh có tin tức gì không?

Salhindro lắc đầu.

- Không. Tôi nghĩ là cậu ấy đang nghỉ ngơi trước phiên tòa xét xử. Cậu ấy đi giảng hòa với chính mình, ở một nơi nào đó xa thế giới văn minh, theo như tôi hiểu về cậu ấy.

Họ ra khỏi thang máy và tới nơi đỗ xe.

- Anh có nghĩ là cậu ấy sẽ trở lại với công việc không?

- Cũng có thể. Với cậu ấy, không thể nói trước được. Cậu ấy vẫn còn trẻ.

- Có lẽ vấn đề chính là ở đó. Lẽ ra chuyện này không nên xảy ra với cậu ấy, nếu đứng dậy được từ đó, cậu ấy sẽ có tương lai trong ngành cảnh sát.

- Dù sao thì cũng hơn anh và tôi! Salhindro mỉa mai.

- Thôi, hẹn gặp ngày mai nhé, Larry.

- Vâng. Ngày mai, rồi ngày kia, rồi cứ tiếp tục như thế.

Họ đứng đối diện nhau, rồi ôm nhau thật chặt trước khi chia tay.
 

hoahongden12

Active Member

Ngồi trên một thân cây đổ, Brolin ngắm nhìn phong cảnh thuần khiết.

Giống như những người khổng lồ đứng yên, dãy núi bình thản trước những đổi thay của thời gian. Một cơn gió nhẹ lướt tới lều của Brolin, tạo nên tiếng rít nhân tạo.

Mắt Joshua đăm đắm nhìn về phía chân trời.

Nhưng tâm trí anh đang ở một nơi nào đó còn xa hơn thế.

Tại sao Juliette lại mất đi? Để thỏa mãn ý thích thất thường nào, số phận nào? Cô ấy không đòi hỏi điều gì ở ai, thế nhưng phần còn lại của đời cô ấy lại được định sẵn vĩnh viễn trong một buổi tối trước máy tính, khi chuyện trò với một kẻ không quen biết.

Đâu là giá trị đạo đức trong cái chết của cô ấy?

Đâu là ý nghĩa của cái chết đó?

Phản xạ đầu tiên của bất cứ tín đồ ngoan đạo nào cũng là tìm kiếm ý chí thần thánh đằng sau sự tàn bạo của cuộc sống thường ngày. Tìm một lời tha thứ cho điều không thể tha thứ, một lý lẽ để tiếp tục tin tưởng.

Nhưng có lẽ không có gì để rút ra từ chuyện này. Juliette có một ý niệm thoáng qua về tình yêu, chút hạnh phúc trong đời cô. Cô là điều anh luôn mong muốn mà anh không hề hay biết, là chỗ thiếu trong bản thân mà mỗi người đàn ông đều tìm cách lấp đầy nhưng không thực sự ý thức được. Chỗ thiếu làm dịu lòng hơn hẳn những chiến thắng nhỏ nhặt khác trong cuộc sống, sự lấp đầy mà người ta không thể sao chép được ở bất cứ đâu. Một phần hạnh phúc riêng của mỗi cá nhân, chỉ đơn giản là có thể được nhận ra trong niềm vui ngắn ngủi nảy sinh vào một ngày nào đó mạnh mẽ và mãnh liệt hơn hẳn mọi niềm vui trước đây.

Brolin đã tìm ra cực điểm này của cuộc sống.

Đó là Juliette.

Thế giới hiện tại dành cho anh điều gì trong cái túi ảo thuật rộng lớn của nó, áp đặt cho anh trò nào, thay đổi thất thường nào hay điều kỳ diệu nào? Ngày lại ngày qua đi khiến vết sẹo của anh biến mất như một hình vẽ trên cát bị biển bất ngờ cuốn trôi. Chỉ duy nhất vẻ đẹp của hình vẽ là vẫn khắc sâu trong tâm trí anh, Juliette sẽ không bao giờ chỉ là một ký ức.

Có lẽ chẳng có giá trị đạo đức nào cả. Bản thân cuộc sống không có giá trị đạo đức. Người tốt không phải lúc nào cũng chiến thắng và kẻ ác đôi khi không bị trừng phạt. Ngay cả ý tưởng về sự trừng phạt mang yếu tố thần thánh cũng chỉ là một cách an ủi ý thức, có lẽ không có sự cân đo lòng người ở phía bên kia cuộc sống.

Chỉ đơn giản là phải chấp nhận ý nghĩ về một thế giới khổng lồ, hàng tỉ con người cùng hít thở một lúc, một thế giới rộng lớn mà con người ở giữa. Con người bị cô lập trong hệ mặt trời, như một điều “bất thường” của tự nhiên, một cái nháy mắt của vũ trụ, vô vị, nhưng lại kèm theo nhu cầu được cảm thấy mình đầy lẽ sống, dù tự biết mình là nô lệ cho một thế lực thiên vị. Một hạt cát, một khoảng thời gian cực ngắn, và hấp! chẳng còn ai nữa. Cả một giống nòi biến mất mà không để lại gì đáng kể.

Brolin bị kéo ra khỏi dòng suy nghĩ vì một cặp hoẵng chạy ra từ mấy lùm cây. Chúng dừng lại quan sát anh bằng cặp mắt đen nháy. Bộ lông của chúng bay bay trong gió nhẹ, chúng đung đưa thân mình, mắt không rời con người đang cắm trại ở đó.

Rồi chúng nhẹ nhàng cọ mình vào một thân cây và biến mất trong rừng rậm.

Một thế giới rộng lớn và vô liêm sĩ, cả tàn bạo nữa.

Nhưng vô cùng phong phú và chỉ được sống một lần duy nhất để chiêm ngưỡng tất cả.

Brolin đứng dậy. Không khí mát mẻ, trong lành.

Phía trước anh là cả thế giới.

Anh dang tay, nhắm mắt lại và hít thở chầm chậm. Anh đặt ngón tay vào giọt nước mắt đọng ở khóe mắt. Giọt nước mắt lăn chậm trên ngón trỏ, chảy theo các nếp da, rồi tách ra, rơi xuống cỏ.

Anh biết rằng khuôn mặt Juliette sẽ mãi mãi ở trong những giọt nước mắt của anh giống như những viên pha lê nhỏ xíu.

Anh gấp đồ đạc, chỉnh lại ba lô và lên đường xuống thung lũng.

Thế giới rất rộng lớn.

Và vẫn còn nhiều thứ để ngắm nhìn…

***

Carter Melington đóng lỗ cửa của phòng giam 65, đánh dấu vào ô điểm danh tù nhân ở đó và chuyển sang phòng giam tiếp theo.

Phòng giam 66.

Anh không thích tù nhân ở đây. Một kẻ giết người hàng loạt, người ta đã nói với anh thế. Một trong những kẻ điên rồ hung dữ, từng lột da phụ nữ như bóc vỏ chuối.

Làm việc ở nhà giam này từ bảy năm nay, Carter luôn thích điểm danh buổi sáng. Công việc không khiến người ta mệt mỏi, không phải trừng trị tù nhân vì họ không ra khỏi chỗ, và nếu làm nhanh, anh có thể ngồi cả tiếng đồng hồ trong bếp rồi mới đi tắm. Nhưng từ khi tù nhân ở phòng giam 66 tới đây, Carter không thích điểm danh nữa.

Anh phải nhìn xem hắn còn ở đó không, một biện pháp an toàn đơn giản, nhưng đôi khi hắn quan sát lại anh.

Thật khó chịu khi ánh mắt hắn chạm vào anh. Dường như hắn bỗng tìm lại được nụ cười. Thực ra, Carter có cảm tưởng như anh không phải là quản giáo, mà là con hươu hay một con linh dương mà con thú săn mồi nhấm nháp bằng mắt trước khi đuổi bắt.

Hắn không xử sự như đang ở sau song sắt, có thể nói là hắn không biết mình đang ngồi tù, hoặc hắn thấy điều đó quá trẻ con nên không cho là quan trọng.

Carter dừng lại trước cánh cửa thép.

Anh mở lỗ cửa và nhìn vào bên trong.

Lại một lần nữa anh có cảm tưởng căn phòng này tối hơn các phòng giam khác. Với những cái bóng dày hơn và rộng hơn.

Hắn ở đó, ngồi trên giường ngủ, hai tay ôm đầu gối, đầu cúi xuống.

Từ miệng hắn phát ra một tiếng động mà Carter nghe khá rõ, khiến anh có cảm giác vô cùng khó chịu.

Và hắn nói.

- Quản giáo Melington. Hãy nói với bọn vô học ấy rằng tôi đã đào tạo nhiều người khác nữa rồi.

Carter cảm thấy hai bàn tay mình lạnh cóng. Người ta bảo rằng phạm nhân ở phòng 66 chưa bao giờ nói gì.

- Hãy nói với bọn chúng rằng Leland và Wayne chỉ là những sản phẩm mẫu. Khúc dạo đầu của điều rùng rợn. Tôi đã đào tạo nhiều người khác nữa trên khắp đất nước này. Tôi đã dành hết thời gian của mình, và rất chuyên tâm. Sắp tới, chúng ta sẽ nghe nói về chuyện này. Sắp rồi.

Rồi hắn ngẩng đầu về phía Carter và nhìn xoáy vào mắt người quản giáo.

Carter suýt nữa đánh rơi bút, anh gắng sức đóng lỗ cửa lại.

Không, không thể nào.

Anh đã nằm mơ.

Anh đưa hai tay lên mặt. Anh run rẩy.

Anh thở ra nhiều lần để xua đuổi hình ảnh mà anh đã thấy, để quét đi mối ngờ vực. Đúng, đúng rồi, mi đã bị ảo giác nặng! Đầu óc mi đã chơi mi! Tối nay, mi cần ngủ thêm một chút và ăn ít gia vị hơn!

Anh lại cầm lấy bảng điểm danh và tiếp tục đi, bước chân kém tự tin hơn. Hai bàn tay anh ẩm ướt đến khó chịu.

Trong một giây, anh nghĩ là đã thấy cặp mắt của Milton Beaumont lóe lên một tia sáng màu đỏ.

Và trong khoảng khắc ngắn ngủi ấy, anh đã thấy linh hồn của hắn.

Linh hồn Ác.

Anh đi sang phòng giam 67, tự thề rằng sẽ không nói lại với bất cứ ai.

Bước chân anh vang lên trên bề mặt cứng của nền nhà, anh vừa đi xa dần vừa lắc đầu.

Linh hồn Ác…
 
Bên trên