[Trinh Thám] Linh Hồn Ác

hoahongden12

Active Member

- Trung tâm, đây là 4-01. Chúng tôi đang ở trong vùng tuần tra 871, cần một 10-28. Xe Mercury Capri màu hạt dẻ, đăng ký ở bang Oregon. Biển số cá nhân hóa “Wendy81”. “Whisky-Echo-November-Delta-Yankee 8-1”

- Đã nhận 4-01, chúng tôi sẽ xử lý.

Với cảnh sát Portland, mã số 10-28 là yêu cầu xác định biển số xe ô tô.

Brolin đỗ chiếc Mustang vào cạnh đường và họ xuống xe.

- Có bao nhiêu phần trăm may mắn đây chính là chiếc xe đó? Brolin hỏi trong khi đi vòng quanh xe.

- Tôi không biết, có bao nhiêu chiếc Mercury Capri ở Portland? 10? 40? Và có bao nhiêu phần trăm may mắn tìm được một chiếc ở nơi đang tìm kiếm? Tôi chưa bao giờ giỏi môn xác suất.

- Thôi, đừng động chạm gì cả. Có thể đây chỉ là xe của một cậu sinh viên tội nghiệp nào đó và cậu ta sẽ kiện chúng ta vì đã đặt tay lên tay nắm cửa xe. Hãy đợi trung tâm trả lời.

- Để họ nói gì với cậu? Salhindro phân vân hỏi. Đây là xe của thị trưởng chăng?

Brolin lấy điện thoại di động ra.

- Ngay khi biết chiếc xe thuộc sở hữu của ai, tôi sẽ gọi cho chủ xe. Nếu người đó trả lời và trong gia đình anh ta không có người mất tích, thì chúng ta sẽ quyết định.

- Thế còn Craig? Chúng ta có thể gọi cậu ấy đến, với tất cả các thiết bị của mình, cậu ấy sẽ cho chúng ta biết đây có phải chính là các lốp xe đã để lại vết trước hiện trường vụ án hay không.

- Larry, chúng ta không thể gọi Craig và cả đội của anh ấy tới mỗi khi tìm thấy một chiếc Mercury Capri.

- Có sao đâu, đấy là việc của cậu ấy mà!

Brolin định đáp lại thì máy điện đài lạo xạo.

- 4-01, đây là trung tâm. Các anh có nghe thấy không?

Salhindro cầm lấy micro.

- Rất rõ.

- Chúng tôi vừa xác định được chủ sở hữu xe. Elizabeth Stinger, ba mươi sáu tuổi, trú tại Fremont Drive, quận Đông.

- Ba mươi sáu tuổi, Brolin nhắc lại. Phù hợp với tuổi của nạn nhân.

- Nhưng quan trọng hơn, giọng nói vô cảm từ trung tâm tiếp tục vang lên, Elizabeth Stinger nằm trong hồ sơ mất tích sáng nay.

Brolin rùng mình. Khi một người được chồng, vợ hoặc một người thân trong gia đình thông báo mất tích, thì theo đúng thủ tục, cần phải chờ bốn mươi tám tiếng đồng hồ mới được ghi vào hồ sơ mất tích, chủ yếu là để chắc chắn không bị nhầm lẫn và tránh làm bão hòa hệ thống. Thế mà cái chết được xác định là xảy ra cách sáng nay năm mươi tiếng đồng hồ, tức là đúng hai ngày trước. Tất cả hoàn toàn trùng hợp.

Chỉ vài phút sau, đồn cảnh sát khu 920 cho biết Elizabeth Stinger bị mất tích vào cuối buổi tối hôm thứ ba. Lúc 23 giờ tối thứ Ba, sau khi nhiều lần gọi cho Elizabeth Stinger mà không được, Amy Frost, bảo mẫu của con gái Elizabeth, quyết định báo cảnh sát. Ông chủ nơi Elizabeth làm việc có nhìn thấy cô ra về vào cuối buổi chiều và từ đó không ai nhìn thấy cô ấy nữa. Elizabeth Stinger làm việc gần đại lộ Columbia, phía Bắc thành phố.

- Đại lộ Columbia ư? Brolin ngạc nhiên. Quá xa! Nếu cô ấy mất tích ở bãi đỗ xe khi ra khỏi nơi làm việc, thì tức là kẻ giết người đã phải đưa cô ấy xuyên qua toàn bộ thành phố để tới đây?

Salhindro nhún vai.

- Cậu mới là chuyên gia chứ.

- Đúng là có một thứ không phù hợp. Người phụ nữ đó ra khỏi nơi làm việc và đi tới nhà bảo mẫu ở quận Đông, tức là còn xa chỗ này hơn nữa. Hung thủ có thể đã chặn đường cô ấy. Và đưa cô ấy tới địa điểm đó.

- Có lẽ hắn thích địa điểm đó.

- Hắn đã phát hiện ra địa điểm đó và chuẩn bị cho hành động của mình. Chính vì thế hắn đã dùng xe của nạn nhân, nếu hắn muốn đi xuyên qua thành phố thì không được để lại hình ảnh về cái xe của chính hắn. Điều khiến tôi băn khoăn là tại sao hắn lại chọn nạn nhân ở xa như thế? Trừ khi…

Lời nói của Brolin biến mất trong dòng suy luận của anh.

- Nếu đây đúng là một kẻ tâm thần, tôi muốn nói là kẻ giết người hàng loạt, thì chắc chắn hắn hành động như phần lớn tội phạm, hắn lang thang và giết bất kỳ phụ nữ nào hợp với sở thích của hắn. Cậu có nghĩ thế không? Salhindro hỏi.

- Không. Hắn đã cho chúng ta thấy rằng hắn không quá tự tin vào bản thân, nhưng hắn không ngu ngốc, hơn nữa còn có Quạ luôn cảnh giác. Khi hắn phải liều lĩnh đi qua thành phố dù hắn thường hành động rất thận trọng, thì tức là hắn không có lựa chọn nào khác. Tại sao vậy?

Một phụ nữ và hai đứa trẻ đi qua sau lưng họ, hai cậu bé nhìn các cảnh sát, cố hiểu xem có gì đáng chú ý ở đây. Bà mẹ nhìn bộ đồng phục cảnh sát của Salhindro và chiếc xe mà hai cảnh sát đang chú ý tới, rồi hiểu rằng có thể đã xảy ra hành động gì đó tàn bạo ở hàng ghế sau. Bà che mắt hai đứa trẻ lại bằng phong bì to đựng phim chụp X-quang rồi rảo bước thật nhanh.

- Tại sao kẻ giết người lại chấp nhận nguy hiểm để đưa nạn nhân đi xuyên qua toàn bộ thành phố? Brolin tiếp tục đặt câu hỏi. Nếu hắn thích địa điểm đó, thì hắn chỉ việc chọn một phụ nữ ở nơi gần hơn, trong số các nữ sinh viên của trường đại học hoặc các y tá. Tại sao hắn lại phải tìm nạn nhân ở xa đến thế?

Brolin bật ngón tay ra dấu chiến thắng.

Ngay lập tức, khuôn mặt Salhindro trở nên rạng rỡ, như vừa được ngón tay của chính Thượng đế chạm vào.

- Bởi vì hắn muốn chính người phụ nữ đó.

- Chính xác, Brolin nói. Hắn không chỉ chuẩn bị sẵn địa điểm giết người mà còn chọn sẵn nạn nhân. Hắn không giết người một cách ngẫu nhiên theo các ảo ảnh của hắn. Chúng ta cần nhận dạng nạn nhân đầu tiên để tìm ra điểm chung. Nhất định phải có một điểm chung.

- Và nếu nơi xảy ra án mạng ở xa đến thế, thì đó là vì nó cũng có một ý nghĩa nào đó. Salhindro hăng hái. Có thể hắn chọn nạn nhân theo thông điệp mà hắn muốn gửi tới chúng ta.

Brolin đồng tình.

- Anh có nhớ lá thư đầu tiên không, những câu thơ trích từ Thần khúc: “Tôi ở trong một khu rừng tối”, và hắn để lại xác nạn nhân đầu tiên trong rừng. Lá thư thứ hai trích những câu thơ ở tầng thứ nhất của Địa ngục và hắn để lại xác nạn nhân trước cửa vào hệ thống cống. Còn gì tượng trưng cho địa ngục dưới mặt đất chính xác hơn những đường cống đen và bẩn.

- Nếu phải gây ra những vụ giết người khác, thì hắn sẽ để các xác chết trong cống.

Một tấm màn đen phủ xuống trước mắt Brolin.

- Ông chủ nói đã thấy Elizabeth ra khỏi nơi làm việc khoảng 6h15, đúng không?

Salhindro gật đầu.

“Và chúng ta phán đoán cô ấy chết vào khoảng nửa đêm? Larry, kẻ giết người nhất định đã chặn đường cô gái ít phút sau khi cô ra về, nếu không bảo mẫu đã nhìn thấy cô ấy. Có nghĩa là hai người ở cạnh nhau suốt mấy giờ đồng hồ…”

Vẻ mặt Brolin thể hiện những gì anh mường tượng ra. Giam giữ, tra tấn đủ kiểu. Anh lại nghĩ tới kẻ giết người hàng loạt John Wayne Gacy, hắn hóa trang thành thằng hề để tìm con mồi trẻ em. Hắn bắt cóc những đứa trẻ đó, tra tấn, cưỡng bức và bóp cổ rồi lại làm chúng tỉnh lại, cứ tiếp tục như vậy tới khi chúng chết. Ba mươi ba lần. Chuyện gì đã xảy ra với Elizabeth Stinger? Cô phải chịu những nỗi thống khổ gì trong suốt mấy giờ đồng hồ?

- Phải bắt tay vào ngay thôi, Larry, nhanh lên.

- Thế cậu định bắt đầu thế nào? Trong khi cậu đưa ảnh nạn nhân cho tất cả những người bán hàng từ đại lộ Columbia đến nhà cô bảo mẫu, thì hắn đã có đủ thời gian để giết nửa thành phố trước khi chúng ta có được thông tin nhỏ nhất, nếu chúng ta có thể có được. Phải có phép màu thì mới có người nhớ được một chiếc Mercury Capri màu hạt dẻ với một người đàn ông lái xe. Vốn rất ranh ma, kẻ giết người sẽ không để lại bất cứ dấu vết nhỏ nhất nào trong xe cả, tôi cá đấy!

Brolin quan sát chiếc xe.

- Nhưng chúng ta có lợi thế về thời gian so với hung thủ, anh nói nhỏ tới mức Salhindro tưởng anh nói một mình. Chắc chắn là hắn không nghĩ chúng ta tìm được chiếc xe nhanh đến thế.

- Và?

- Chúng ta chỉ mất có vài giờ. Tôi tin chắc rằng chiếc xe chỉ là một chi tiết nhỏ đối với hắn vì hắn nghĩ là chúng ta không tìm được nó – hoặc mất rất nhiều thời gian.

Brolin vừa quan sát kỹ phần còn lại của bãi đỗ xe vừa nói thêm:

- Và điều này, tôi có thể sử dụng để nhử hắn về phía tôi.
 

hoahongden12

Active Member

- Ở FBI, người ta gọi nó là “kỹ thuật tiên phong hành động”, Brolin giải thích cho các đồng nghiệp.

Lloyd Meats đưa tay lên chòm râu, vẻ mặt hoài nghi.

- Vậy kỹ thuật này là như thế nào? Đại úy Chamberlin hỏi.

- Là sử dụng những gì chúng ta biết về đối thủ, về những sai lầm của hắn, để giăng bẫy và đưa hắn tới chỗ chúng ta, cựu điệp viên FBI giảng giải.

- Nhưng chúng ta có biết gì về hắn đâu! Bentley Cotland phản đối. Anh muốn sử dụng sai lầm nào?

Brolin đứng dậy khỏi ghế bành và nhìn những người đang có mặt trong phòng làm việc của anh. Đại úy Chamberlin và cấp phó của ông là thanh tra Lloyd Meats, trợ lý chưởng lý tương lai Cotland và Larry Salhindro. Tất cả nhìn anh như nhìn một con thú quý hiếm.

- Anh đã không nghe tôi nói gì từ khi bắt đầu cuộc điều tra, anh đáp lại, mắt nhìn thẳng vào Cotland. Các vụ án mạng gây ra nói với chúng ta, hắn liên lạc với chúng ta qua các vụ giết người – mặc dù hắn không biết điều này – các hành động của hắn là thể hiện vô thức và ảo ảnh của hắn. Và tôi đã nói với các anh rằng hắn mắc chứng tự mê. Đây là những vụ án tự mê – tình dục. Hắn không nhìn nhận nạn nhân như một sinh vật sống vì hắn chỉ cảm nhận được nhu cầu của riêng hắn, thú vui của riêng hắn. Hắn không hiểu nỗi đau đớn của người khác vì với hắn, đau đớn là một công cụ mua vui. Hơn nữa, giờ đây chúng ta đã biết – qua lá thư mới nhất – rằng còn có Quạ ở bên cạnh hắn. Có thể không trực tiếp ở hiện trường vụ án, nhưng hắn biết tất cả những gì kẻ giết người làm vì chúng chia sẻ với nhau.

Brolin ngừng một lát để tin chắc rằng tất cả mọi người đang lắng nghe anh. Rồi anh nói tiếp bằng giọng rất nghiêm trọng:

“Thật ra, tôi nghĩ rằng Quạ là người điều khiển kẻ giết người. Một tên là bộ não chỉ huy, một tên thực hiện. Đối với nạn nhân thứ nhất, kẻ giết người thể hiện mình chưa trưởng thành về mặt tình dục, hắn vẫn chưa chấp nhận bản thân như mình vốn là hoặc không đủ tự tin, đó là một kẻ bất mãn mang trong mình một sự hung bạo khủng khiếp đối với phụ nữ. Kiểu người này chỉ chuyển sang hành động khi hận thù và giận dữ tích dồn lại, hắn phải trải qua một sự kiện gây stress mạnh mẽ khiến hắn bùng nổ. Khi đó hắn không kìm nén được nữa và hắn hành động, nhưng theo cách hầu như không kiểm soát được, không chuẩn bị trước. Vậy mà vụ án lại được chuẩn bị trước – bằng chứng là chất Mercaptan được đặt vào ngôi nhà hoang từ vài ngày trước. Và chúng ta không tìm lại được dấu hiệu nào cả, đây là lý do địa điểm này được chọn. Cũng tương tự như vậy với vụ án thứ hai. Tuy nhiên, kẻ giết người dường như đã kiểm soát bản thân tốt hơn. Hắn tự tin hơn một chút, nhưng vẫn không kiềm chế được việc cắt đi bầu ngực của nạn nhân. Bản chất đồi bại trở lại cực nhanh, ngay cả khi hắn muốn xua đuổi nó. Nếu Quạ là kẻ đúng như tôi nghĩ, nếu hắn đúng là cái đầu suy nghĩ của cả hai, thì chúng ta có một cơ hội giăng bẫy hắn.”

- Tôi không thấy có cách nào cả, Meats cay đắng than thở. Hắn không để lại cho chúng ta cái gì đáng kể, một vết chân và những vết bánh xe, quá ít!

- Hãy tự đặt câu hỏi này: tại sao Quạ gửi thư cho chúng ta?

- Để dọa, hoặc để gây chú ý, để chứng tỏ với mọi người rằng hắn tồn tại, Meats hăng hái vì đã có những kinh nghiệm trước đây.

- Không hẳn thế, nếu hắn muốn chứng tỏ với mọi người rằng hắn tồn tại, thì hắn sẽ gửi thư cho các phương tiện truyền thông, chứ không phải cho cảnh sát vì hắn biết rõ là chúng ta sẽ giữ bí mật về những lá thư đó, Brolin phản bác. Tôi nghĩ hắn muốn đùa giỡn với chúng ta. Hắn cũng là một kẻ đồi bại mắc chứng tự mê – tình dục, hắn là kẻ chi phối, kẻ điều khiển, chính vì thế mà chúng tấn công phụ nữ và làm họ đau đớn. Tại sao lại là Địa ngục của Dante và chúng tìm cách đạt được gì khi đi qua chín tầng địa ngục, tôi không biết, có thể là đạt tới cốt lõi của cái Ác hoặc một điều hoang tưởng nào đó, tôi không biết nữa. Nhưng Quạ muốn đối đầu với cảnh sát vì hắn tự cho mình mạnh và thông minh hơn chúng ta và hắn muốn chúng ta thấy điều đó. Cảnh sát là cánh tay của xã hội, chúng ta đại diện cho cơ quan thi hành luật pháp của giới chúng ta. Nếu anh thách thức cảnh sát, tức là anh nằm ngoài lề xã hội, và chỉ nhà tù mới có thể sửa chữa anh, giúp anh trở lại là công dân. Nhưng nếu chứng tỏ được mình trên tài cảnh sát, anh sẽ ở bên trên xã hội này, mạnh hơn. Hắn tự thấy mình như thế, hắn rất tự tin. Đây chính là sai lầm cần được khai thác.

- Đó là cái mà anh gọi là hướng đi cơ đấy! Bentley Cotland kêu lên. Cảm ơn vì bài học về tâm lý tội phạm, nhưng nó sẽ cho chúng ta biết điều gì ư? Cho chúng ta biết kẻ điên đó sống ở đâu ư? Không! Thôi được, vậy thì anh muốn làm gì?

- Xin lỗi anh Cotland, hãy để tôi tiếp tục nếu anh không tự suy luận được.

Bentley Cotland nhìn xoáy vào mắt anh. Lần này thật quá thể! Để xem gã cảnh sát trẻ kia phải trả giá như thế nào khi làm phật lòng một chưởng lý! Ngay sau khi được bổ nhiệm, mình sẽ sắp sếp để Joshua Brolin chỉ còn được nhận những cuộc điều tra tệ hại nhất mà thôi, và thời gian còn lại, anh ta sẽ phải đi khắp Portland để gom bọn say rượu và gái điếm đứng đường. Tên nông dân ấy nghĩ hắn là ai mới được chứ?

- Lúc đầu, chúng ta may mắn nhận ra được các vết bánh xe nhờ công lao to lớn của Craig Nova và nhóm anh ấy, Brolin nói tiếp. Sau đó, nhờ suy luận của chúng ta (anh nháy mắt với Larry) và một chút may mắn, chiều nay chúng ta đã tìm được chiếc xe của nạn nhân. Đây chính là chiếc xe mà kẻ giết người đã sử dụng để chở nạn nhân đến nơi gây án, các vết xe chính là bằng chứng. Tôi tin chắc rằng hắn không nghĩ chúng ta tìm ra chiếc xe nhanh đến thế.

- Vấn đề ở chỗ đây không phải là xe của hắn mà là xe của nạn nhân, và đương nhiên là hắn đã xóa rửa sạch sẽ! Chamberlin vặn lại.

- Thưa đại úy, chúng tôi có những yếu tố cần thiết để thực hiện một kỹ thuật tiên phong hành động. Tôi xin nói rõ hơn: chúng ta giăng bẫy quanh chiếc xe của nạn nhân và nhử hắn tới. Vì hắn muốn chơi, nên chúng ta sẽ đề nghị chơi với hắn một ván.

- Vậy cụ thể chúng ta phải làm gì? Salhindro hỏi vì ông liên quan đến cả công tác hậu cần lẫn thực tiễn.

Brolin quay về phía Đại úy Chamberlin.

- Thưa đại úy, anh hãy mời báo chí tới và thông báo rằng chúng ta đang đi theo một hướng điều tra rất quan trọng, rằng việc bắt giữ hung thủ chỉ còn tính bằng ngày. Chắc chắn họ sẽ yêu cầu anh đưa ra chi tiết, khi đó anh hãy trả lời là về các vết bánh xe, nhờ chúng mà chúng ta biết được rằng hung thủ hoặc nạn nhân có một chiếc Mercury Capri 1977. Và rằng trong những ngày tới, chúng ta sẽ tìm tất cả các xe Mercury Carpi, rằng chúng ta sẽ khai thác tất cả các hướng điều tra, thẩm vấn tất cả các chủ sở hữu xe, và các xe Mercury Capri vô chủ sẽ được soi cực kỳ kỹ lưỡng để tìm ra những dấu vết nhỏ nhất. Chúng ta sẽ phân tích tất cả các vết bánh xe gần giống, thẩm vấn tất cả các nhân chứng có thể có, v.v... Mục đích là gây ấn tượng với hung thủ bằng hàng loạt công nghệ được triển khai và bằng sự tự tin của chúng ta, anh hãy tỏ ra tự tin, hãy nhấn mạnh vào ý hắn sẽ nhanh chóng phải đứng sau vành móng ngựa, để làm cho hắn tức tối. Hắn hẳn sẽ rất ngạc nhiên vì chúng ta xác định được chiếc xe của nạn nhân nhanh đến thế, điều này có thể khiến hắn sợ, hơn nữa nếu cảm thấy mình bị coi thường, hắn sẽ liều lĩnh.

- Và hắn liều lĩnh gây thêm án mạng rất nhanh! Anh muốn như thế sao? Bentley bắt bẻ.

- Không, trước tiên hắn sẽ xóa dấu vết! Hắn biết chúng ta sẽ nhanh chóng tìm được chiếc Mercury, trừ phi bản thân hắn là cảnh sát và tin chắc đã rửa sạch hoàn toàn chiếc xe, còn không hắn không thể biết chính xác về các phương tiện công nghệ của chúng ta. Việc chúng ta xác định được chiếc xe nhanh như vậy có thể khiến hắn lo sợ. Và nếu chúng ta gặp may, thì hắn đã đỗ chiếc xe của chính hắn không xa chiếc Mercury để không phải đi bộ xa và không bị nhiều người ở bãi đỗ xe nhìn thấy. Như vậy hắn sẽ lo sợ chúng ta có thể tìm ra dấu vết bánh xe của hắn. Hãy nhấn mạnh về các vết bánh xe và tầm quan trọng của chúng, thưa đại úy, cũng như tất cả các chi tiết có thể cho chúng ta thấy những dấu hiệu nhỏ nhất, anh cứ nói là chỉ một sợi tóc thôi cũng có thể cho chúng ta biết rất nhiều thông tin rồi. Tôi muốn hắn cảm thấy bị đe dọa vừa đủ để hắn phải liều lĩnh quay lại bãi xe rất nhanh và lấy chiếc Mercury rồi tống khứ nó đi.

Bentley lắc đầu, sững sờ không hiểu vì sao người ta lại có thể xây dựng những lý thuyết như thế.

- Nếu tôi hiểu đúng ý anh, Salhindro phát biểu, thì đại úy tổ chức cuộc họp báo nhỏ, thông tin sẽ được đưa lên truyền hình và tất cả các báo, trong lúc đó chúng ta bí mật tới bãi đỗ xe và chờ xem cá có cắn câu không, đúng không?

Brolin gật đầu.

- Chính xác. Chúng ta ở đó quan sát cùng với một nhóm của SWAT (Special Weapons and Tactics, đội cảnh sát đặc nhiệm), và ngay khi có một người động vào chiếc Mercury, chúng ta sẽ bao vây toàn bộ khu vực và tóm lấy hắn.

Đại úy Chamberlin chép miệng, vẻ không đồng tình.

- Theo tôi, ông lên tiếng, vấn đề là ở chỗ khu vực rất rộng và đông người qua lại.

- Vâng, đó là một mối bận tâm. Chúng ta không thể hạn chế lượng người ra vào mà không gây nghi ngờ. Nhưng hung thủ sẽ tìm cách để càng ít người chú ý càng tốt, hắn sẽ tránh đi lẫn vào đám đông người qua lại, tôi nghĩ thế, vả lại rất có thể hắn sẽ tới vào ban đêm.

Căn phòng trở nên im lặng. Chỉ có tiếng quạt thông gió quay ù ù ở một góc và tiếng chuông điện thoại kêu vọng đến từ các phòng khác. Điếu thuốc lá của Meats cháy hết trong gạt tàn mà anh không hề để ý.

Bentley là người đầu tiên phá tan sự im lặng.

- Thưa đại úy, dù sao ông cũng không nên chấp nhận một phương án điên rồ đến thế!

- Anh có phương án gì hay hơn không, anh Cotland? Hay anh thích đợi có nạn nhân sau? Trong trường hợp này, anh có thể tổ chức cuộc họp báo sắp tới và hễ chúng ta còn ở đây, thì anh là người sẽ nói với gia đình nạn nhân, anh nói gì về việc này?

Bentley chỉ lẩm bẩm.

Đại úy Chamberlin vuốt hàng ria mép, ánh mắt chìm vào hư vô của suy nghĩ. Khi ông tiếp tục nói, giọng ông trở nên khàn hơn, có lẽ vì hoài nghi.

- Brolin?

- Vâng, thưa đại úy.

- Thường thì kỹ thuật tiên phong hành động ở FBI có cho kết quả tốt không?

Brolin nhún vai.

- Cũng còn tùy. Đôi khi tốt. Cần thêm một chút may mắn.

Đại úy nắm chặt bàn tay.

- Tôi nghĩ là chúng ta cần hành động ngay, tránh mất thêm thời gian, ông nói. Brolin, hãy liên hệ với đội đặc nhiệm trong khi tôi họp với cánh nhà báo. Trong vòng 3 tiếng nữa, các thông tin sẽ được tung ra, thông báo đến mọi công dân của bang Oregon rằng chúng ta rất tự tin và kẻ giết hai phụ nữ sẽ bị bắt giữ trong nay mai.

Ông nhắm mắt lại và nói thêm:

- Hy vọng là chúng ta không sai lầm. Chúng ta đánh lớn.
 

hoahongden12

Active Member

Dàn âm thanh giá trị 1800 đô la đang phát album mới nhất của Amon Tobin ở tầng trệt, làm rung cả nền nhà dưới tác dụng của loa bass.

- Làm ơn vặn nhỏ nhạc đi, Camelia nói.

Chỉ số decibel lao ngay xuống như máy bay bổ nhào.

Juliette dựa vào khung cửa bếp, miệng nhấm nháp một củ cà rốt sống.

- Chúng mình ra ngoài ăn tối nhé? Cô đề xuất.

Camelia nhìn cô bằng ánh mắt tinh quái.

- Muốn có bạn ư? Cuối cùng thì có lẽ Juliette của tôi cũng quyết định tự tặng cho bản thân mình sự hiện diện của một anh chàng chứ gì?

Juliette nhún vai tỏ vẻ không hài lòng

- Đừng có ngốc như thế, đó không phải là điều mà em cần.

- Ơ, bình tĩnh nào, chị chỉ nói đến bạn trai một đêm thôi! Một anh chàng Kleenex.

- Còn em, em nói rất nghiêm túc. Đi xem phim hoặc tới tiệm ăn chỉ có con gái với nhau, em không biết nữa, một việc gì đó mang tính chất “xã hội”. Nói chung là đi chơi.

Camelia bỏ cuốn tạp chí đang đọc xuống

- Thế còn hai con đười ươi của em? Cô vừa nói vừa hất cằm ra phía ngoài.

Juliette thở dài

- Em nghĩ là họ sẽ đi theo chúng ta, dù thế nào họ cũng không thể ngăn cản em sống.

Camelia nhìn đồng hồ

- Mười bảy giờ, vẫn còn thời gian để lựa chọn. Món ăn Tàu nhé? À này! Chị biết một nhà hàng Nga ăn rất ngon ở Downtown

- Hay là nhà hàng Pháp?

- Gốc gác của em lại trỗi dậy hay sao?

- Theo chị thì gu ẩm thực có di truyền không? Juliette đáp.

Cả hai cô gái cùng cười, rồi Camelia thể hiện vẻ mặt rất tập trung, nhăn nhó hết mức.

- Có chứ! Cô kêu lên. Chị chưa giới thiệu anh bạn Anthony Desaux với em nhỉ?

- Anh bạn triệu phú ư?

- Người Pháp lại còn nấu ăn rất giỏi nữa! Với tính cách lãng mạn và galang kiểu Pháp, đây chính là người mà em cần.

Juliette chưa kịp nói thêm gì thì Camelia đã nhấc điện thoại lên.

Juliette vẫn đứng trong bếp. Cô nhớ lại cuộc trò chuyện chiều nay với Brolin. Nhưng không phải là lời nói, mà là nét mặt của anh khi họ chỉ đứng cách nhau vài centimet, khoảng cách mà cô cố giữ. Một sợi dây rất mảnh được dệt nên chính thời điểm đó, một sợi tơ ham muốn, cô không thể giấu mình điều này, đúng là cô đã cảm thấy ham muốn. Mà điều này đã rất lâu rồi không xảy đến với cô. Trong vài giây, cô muốn được anh ôm hôn, muốn da họ cọ sát và chạm vào nhau.

Một sợi tơ ham muốn.

Bỗng dưng bùng lên, cháy như một que diêm. Được thổi bùng từ những bất ngờ của cuộc sống, mà ở đây là một tiếng chuông điện thoại. Thật ra, nó là gì? Liệu có phải là một cảm xúc nhất thời, một phản ứng kỳ lạ của cơ thể trong thời kỳ hoảng loạn? Nếu hai người cùng ở bên nhau một thời gian, cô sẽ cảm thấy thế nào? Mong muốn gắn bó với nhau hay chỉ là tình bạn, chuyện trò và lòng tin?

Camelia lại xuất hiện.

- Phủi bụi trên các bộ đồ dạ hội của em đi, bọn mình được mời ăn tối ở nhà anh Desaux, đúng tám giờ.

- Hy vọng là chị không bắt ép người ta mời mình đấy chứ?

- Không hề, khi chị nói là sẽ giới thiệu cho anh ấy cô gái xinh đẹp nhất bang Origon, anh ấy rất vui mừng mời bọn mình tới ăn tối!

- Chị không nói thế! Khẳng định với em chị không nói thế đi!

Thay vì trả lời, Camelia chỉ cười rất tươi, đây là cách ưa thích của cô để cho người khác tha hồ hoài nghi: nụ cười của loài thú ăn thịt, nhe hết cả hàm răng.

Chiếc khiên đồng mang hình gia huy của nhà Desaux chốt chặt cánh cổng sắt uy nghi của khu nhà. Các họa tiết gồm có một con rồng phun lửa trên cạnh phải, một chiếc kiếm bên cạnh trái và một tháp pháo đài đơn giản khắc nổi ở giữa.

Camelia bấm rồi nói vào điện thoại nội bộ ở cạnh lối vào và chiếc huy hiệu tách ra làm đôi khi cánh cổng sắt mở ra. Đằng sau, chiếc xe ngụy trang bình thường làm nhiệm vụ bảo vệ Juliette dừng lại nơi lề đường. Hai cảnh sát trong xe lấy bánh mì kẹp và báo ra để kiên nhẫn làm công việc đau khổ của họ như đã thỏa thuận với cô gái khi cô thông báo sẽ đi ăn tối ở điền trang Desaux.

Camelia lái xe xuyên qua cánh rừng riêng, bình thản đi trong đêm.

Ngồi bên cạnh, Juliette ngắm nhìn cảnh quan được chiếu sáng bằng ánh đèn pha.

- Tất cả là của anh ý sao? Cô hỏi. Em muốn hỏi tất cả chỉ thuộc về một mình anh ấy thôi sao?

- Và không thuộc về bất cứ ai khác. Một bức tường bốn mét bao quanh điền trang rộng 12 héc ta, nếu muốn dạo chơi ở đây thì em phải là bạn của anh ấy. Những người không được chấp nhận, persona non grata, chỉ đứng bên ngoài. Về phương diện nào đó, Anthony Desaux sống trong một thế giới khác, rồi em sẽ thấy.

Juliette đồng tình, nhưng cô không chắc mình có sẵn sàng gặp gỡ một người như thế hay không.

Phía sau một đám hoa đỗ quyên rất lớn, tòa nhà của gia tộc Descaux đột ngột hiện ra. Juliette tưởng mình sẽ nhìn thấy một điền trang kiểu Pháp, giống như một tòa lâu đài bên sông Loire, với những ô cửa sổ dài, trần nhà rất cao với những đường chỉ cầu kỳ, những lò sưởi bằng đá cẩm thạch và sàn gỗ cổ được đánh xi cẩn thận. Nhưng nhà của gia tộc Desaux không mang nét kiến trúc nào của Levau và những khu vườn cũng không mang nét gì của Lenotre. Quả thực, trông nó hệt như bắt nguồn từ Cornwall hay Connemara vậy. Tất cả đều theo phong cách neo - gothic, với vô số lò sưởi bằng đá, những ô cửa sổ hẹp và mái dựng thẳng lên trời như tháp chuông nhỏ bị những tia chớp mài nhọn. Tòa nhà giống như một nhà thờ nằm ngang. Juliette nhận xét khi họ đến gần.

- Trời ơi! Cô thốt lên vì ngạc nhiên. Bọn mình sẽ ăn ở trong đó sao?

- Gì cơ? Em không thấy khoái à?

- Không, thực sự em có cảm tưởng như đang ở trong một bộ phim kinh dị tồi.

- Một bộ phim kinh dị tồi lấy đâu ra kinh phí để trả cho một deco như thế này, giờ thì đừng kêu ca nữa và hãy tận hưởng đi. Em sẽ gặp gỡ giới quý tộc Pháp.

Camelia đi qua dưới một vòm trống và đỗ xe dưới một bậc thềm đá đen. Cửa mở ngay, một người mặc complet xoa xoa tay ra đón họ. Anh ta khoảng năm mươi tuổi, với mái tóc trắng chải ngược ra đằng sau và khổ vai rộng của một người có cuộc sống đầy đủ, vừa tập luyện thể thao vừa theo chủ nghĩa khoái lạc.

- Chào mừng các cô tới thăm nhà tôi! Cứ để xe ở đây.

Camelia bước nhanh lên bậc thang để đến bên chủ nhà

- Rất vui lòng, cô đáp khi anh đặt một nụ hôn lên má cô.

- Còn đây chắc là Juliette xinh đẹp mà tôi rất hay được nghe nói đến! Anh ta thốt lên để lộ hàm răng trắng một cách bất bình thường.

Juliette bước chậm đến. Đứng thẳng người trong bộ complet xa hoa, Anthony Desaux cười rất tươichào cô. Cô thấy hàm răng hoàn hảo, mái tóc không chê vào đâu được và da mặt nhẵn nhụi của nhà triệu phú. Trên cằm anh ta có một vết lõm sâu.

“Quả là dễ đẹp trai hơn khi người ta giàu”, cô thầm nghĩ khi nhìn anh ta. Rồi ngay lập tức cô tự trách mình đã tỏ ra vô liêm sỉ với anh ta và nhất là với tiền bạc của anh ta, trong khi gia đình cô cũng không có gì đáng phàn nàn cả.

- Tôi rất vui được làm quen với anh, anh Desaux, cô vừa nói vừa chìa tay cho anh ta.

- Cứ gọi tôi là Anthony. Thay vì bắt tay cô, anh ta cúi xuống trịnh trọng hôn tay cô.

- Xin mời vào.

Anh ta đứng sang một bên để họ bước vào tiền sảnh rộng mênh mông.

Bữa tối diễn ra trong phòng ăn “nhỏ”, để “thân mật hơn” theo đúng lời của chủ nhà. Họ ăn tối dưới một chiếc đèn chùm bằng pha lê thế kỷ XVIII và với bộ bát đĩa mà chiếc nhỏ nhất hẳn phải có giá trị ít nhất 2500 đô la. Juliette sợ có một đội ngũ đầu bếp đông đảo phục vụ nhưng chính Anthony tự tay phục vụ và đôi lúc nán lại một lát trong bếp. Và như Camelia đã hứa với cô, anh ta tỏ ra là một bếp trưởng tuyệt vời, ninh món gà nấu đậu cô ve tẩm rượu vang ngon tuyệt. Rượu vang, tất nhiên là vang Pháp, thuộc loại dễ say nhất, và khi chủ nhà nói bóng gió về giá rượu vang, Juliette suýt nữa bị nghẹn. Rõ ràng Anthony thích nói về bản thân, về sự thành đạt của mình và của gia đình từ nhiều thế hệ. Như thể tài năng trong lĩnh vực tài chính được di truyền theo gen. Anh ta nói nhiều với họ về đất nước mình, ca ngợi phong cảnh đẹp, nền văn hóa giàu bản sắc, nhưng chê trách trình độ yếu kém của các chính trị gia và đầu óc quá bảo thủ của dân tộc Pháp, câu chuyện khiến Juliette rất vui. Được phát ra từ miệng một quý tộc tự hào về nguồn gốc danh giá của mình, nhưng lại ca tụng chủ nghĩa tư bản một cách quá đáng vì chủ nghĩa ấy giúp nhà máy của anh ta tăng hiệu suất tài chính, nhận xét về tính bảo thủ này nghe giống như lời lăng nhục đối với tất cả những người không có may mắn được làm chủ số phận mình.

Càng về cuối buổi tối, Juliette càng thấy Anthony là người được sinh ra trong tiền bạc và luận thuyết của một “gia đình danh giá” nhưng lại không xa cách mọi người, anh ta không bốc mùi kiêu căng hay tự phụ, anh ta tự hào là một triệu phú có nguồn gốc xuất thân danh giá nhưng không vì thế mà khinh thường mọi người.

Khi món tráng miệng Belle – Helene được mang ra và rào cản nhút nhát đã bị xóa bỏ vì sự mệt mỏi, rượu và không khí nồng nhiệt của bữa ăn, Juliette mới dám hỏi một câu mang tính riêng tư hơn:

- Xin lỗi vì tò mò, nhưng anh sống một mình trong ngôi nhà rộng lớn này sao?

Anthony đặt một tay vào chiếc ly pha lê, tay kia cầm khăn và cẩn thận chấm lên môi

- Nếu câu hỏi này đồng nghĩa với việc muốn biết tôi có vợ hay không, thì câu trả lời là không, tôi góa vợ. Nhưng tôi không hoàn toàn sống một mình ở đây, tôi còn có đội ngũ người làm ở cánh phía Tây, tôi cho họ nghỉ buổi tối. Còn cô? Cô đã đính hôn hay tương tự như vậy chưa?

Juliette cảm thấy hai má đỏ rực và bực mình vì quá nhạy cảm.

- Chưa, tôi hoàn toàn chú tâm vào việc học tập.

- A, đúng rồi! Camelia đã nói với tôi. Tâm lý học. Cô có biết rằng tôi có bạn bè là những nhân vật quan trọng ở Johns Hopskin và Georgetown (2 trường đại học gần Washington DC, rất nổi tiếng và được đánh giá rất cao) không? Tôi có thể trợ giúp hồ sơ của cô nếu cô quan tâm.

Juliette nuốt một miếng lê, cô cảm thấy khó chịu. “Anh ta định nói gì thế nhỉ? cô tự hỏi. Anh ta đang tán tỉnh mình hay chính mình tưởng tượng ra”.

Không biết nên trả lời thế nào, cô chỉ gật đầu, hy vọng câu chuyện không đi xa hơn thế.

- Đừng ngại hỏi tôi, tôi rất vui lòng làm việc đó, anh ta nói thêm.

Nhận thấy vẻ khó chịu của cô bạn, Camelia đặt tay lên tay của Anthony.

- Anh nên dẫn bọn em vào thư viện của anh, Juliette mê sách vở lắm.

- Thế ư? Anh ta ngạc nhiên. Thế thì tôi đúng là người mà cô cần! Tôi có hơn năm mươi hai nghìn cuốn sách về tất cả các chủ đề.

Juliette thấy bàn tay nhà triệu phú nắm lấy tay của Camelia. Cô luôn tự hỏi có mối quan hệ thân thiết nào giữa họ không nhưng cô chưa bao giờ dám hỏi Camelia. Chị kém anh ta những hai mươi tuổi, nhưng anh ta vẫn có một sức quyến rũ nào đó. Nếu đúng là có chuyện gì đấy giữa họ, thì sức quyến rũ có phải là lý do thực sự không? “Đúng là một số phụ nữ thấy anh ta hấp dẫn và đặc biệt với phong cách một quý tộc Pháp, nhưng tiền bạc của anh ta cũng khiến người khác thèm muốn, Juliette tự nhủ. Không. Không phải Camelia, chị ấy không thuộc loại nào, chị ấy không hám tiền và bản thân đã có một khoản tiền lớn sau khi ly hôn”.

Anthony Desaux nhìn sâu vào mắt Camelia, tay đưa ly rượu đặt vào đôi môi mỏng của cô.

Juliette mỉm cười. Phải, đúng là phải có gì đó giữa họ, trong mắt họ ánh lên những kỷ niệm ngọt ngào của tình yêu. Và quả đúng, với tinh thần của Camelia, “vượt qua bề ngoài tuổi tác, để chỉ giữ lấy bản chất con người, như chị ấy thường nói. Chính khi đó người ta tìm thấy người đàn ông tốt nhất”.

Nghĩ cho kỹ thì đề suất gửi gắm cô vào Johns Hopskin hoặc Georgetown có lẽ không phải là tán tỉnh, anh ta chỉ nói ra vì Camelia, như một bằng chứng cho tình cảm trừu mến.

- Nào, chúng ta đi thăm thư viện nhé! Anthony nói và đứng dậy.

Đi thêm mấy cầu thang và hành lang nữa, anh ta đẩy một cánh cửa nặng nhọc với những họa tiết trang trí dát vàng. Juliette ngây người trước cảnh tượng bên trong.

Những cái bóng của đỉnh tròn đổ dài vài mét giữa những giá sách cao của thư viện. Ánh trăng yếu ớt chiếu vào lãnh địa tối tăm này qua mấy ô cửa sổ. Juliette thấy một bức tranh vẽ trên trần, khoảng cách từ trần đến sàn là 8 mét, nhưng ánh trăng không cho phép cô nhìn thấy gì khác ngoài một thiên thần ở trên một cái cây và một nhà thông thái đang nhìn thiên thần được vẽ theo phong cách giả Raphael.

Bước chân của Anthony Desaux nện trên những tấm đá lát nặng nề màu đen và trắng, anh ta đi tới một chiếc bàn, bật cây đèn đồng chụp màu xanh đời đầu thế kỷ lên. Ánh sáng tỏa ra trong vòng bán kính vài mét, nhưng không thể xuyên thủng lớp màn tối phủ lên những người khổng lồ bằng gỗ trên những giá chất đầy sách, Juliette chăm chú nhìn chủ sở hữu của nơi này. Anh ta đứng giữa một ốc đảo sáng nhỏ, nổi lên trên làn sương mờ bí ẩn.

- Các cô còn chờ gì nữa. Vào đây! Anh ta nói to với hai vị khách mời đứng ngây ở cửa.

Giọng nói vang to, nảy trên nền nhà, trên trần nhà rồi bị nuốt sâu vào những lối đi tối tăm của thư viện.

- Tôi đã nói rồi, năm mươi hai nghìn tác phẩm được đặt ở đây, các giá sách cao đến năm mét và nếu đi hết tất cả các lối đi trong thư viện này, các cô sẽ đi được hơn nửa cây số.

Có lẽ do bầu không khí hoặc do thời gian quá muộn, nên Juliette rùng mình khi nghe lời nói của chủ nhà. Còn hơn cả khi ở trong nhà thờ hay trong văn phòng của một học giả uyên bác, sự im lặng ở đây với cô là một nghi thức không được làm uế tạp. Mặc dù vậy, cô vẫn mấp máy môi:

- Rất ấn tượng, cô thốt lên.

Lời nói của cô vang vọng khắp tòa nhà:

“Nhưng mà làm thế nào anh tìm được sách trong bóng tối như thế này? Dầu sao anh cũng đâu cầm theo đèn pin.”

Anthony dường như thích thú với nhận xét này, nét mặt anh ta vô cùng rạng rỡ. Anh ta cầm lấy một chiếc điều khiển từ xa rồi bấm nút. Ngay lập tức, hàng chục ngọn đèn nhỏ lặng lẽ sáng lên trên các hàng giá sách. Với số lượng hạn chế, chúng chỉ cho phép đọc tên sách, phủ lên đỉnh tròn một lớp màn ánh sáng mờ đục.

Juliette bước vào một lối đi, đầu ngẩng về những cuốn sách bìa da. Cô đi qua những ốc đảo ánh sáng hiếm hoi. Cô không tin nổi vào mắt mình, “vừa rộng, vừa...vừa đẹp, vừa đáng sợ”, cô tự nhủ. Trên các giá sách vừa có sự phô trương, vừa có sự khiêm tốn, một vài cuốn sách để lộ mép trước những con mắt tò mò, còn các cuốn khác ẩn mình trong bóng tối dầy đặc.

Cô bỗng đứng khựng lại, mặt đối mặt với người phụ nữ có đôi mắt trống rỗng.

Rồi cô lấy lại được bình tĩnh khi thấy một bức tượng bán thân đặt trên kệ. Xoay người lại, Juliette thấy thêm rất nhiều tượng khác, chủ yếu là tượng phụ nữ và không được đặt hẳn ra phía trước. Người ta chủ ý đặt chúng lùi về phía sau như những thứ đồ đạc chứ không phải như tác phẩm nghệ thuật.

Giọng nói của nhà triệu phú vang lên, kéo cô ra khỏi vòng suy tưởng:

- Juliette, cô thích đọc loại sách nào? Lịch sử thời kỳ phục hưng dưới con mắt của người cùng thời với Da Vinci? Một bản sách Một người Mỹ trong triều đình vua Arthur của Twain có chữ ký tác giả? Tôi biết rồi, Một ấn bản đầu tiên về các lý thuyết của Freud! Hoặc có thể cô thích một trong những cuốn sách phù thủy cổ đại hơn chăng?

- Phù thủy ư? Anh có sách về phép thuật sao? Juliette hỏi.

Tiếng cười thoải mái của Anthony vang lên đến mái vòm trong khi anh ta xoa xoa tay.

- Có chứ, anh ta đáp, vẻ tự hào vì đã gây bất ngờ cho người đối thoại. Và có lẽ đây là thư viện sách thần bí phong phú nhất cả nước!

- Nhất là sách về phép thuật.

Camelia nhìn Juliette. Điều gì khiến Juliette bỗng trở nên bí ẩn như thế. Thông thường đây là loại chủ đề cô ấy thấy chán. Theo như chính lời Juliette kể, cô chưa bao giờ dự một buổi gọi hồn cùng các bạn gái, cũng chưa bao giờ thử làm bùa yêu khi còn là thiếu niên, cô thấy việc này thật “quá lãng mạn”.

- Tất nhiên rồi, Anthony thốt lên. Nhưng đây không phải là lĩnh vực mà người ta vô cớ tìm hiểu đâu nhé, cô bạn thân mến ạ. Cho phép tôi hỏi lý do khiến cô quan tâm?

Mắt anh ta ánh lên niềm vui sướng sắc sảo và ngốn ngấu.

- Tính tò mò, Juliette nói dối. Những cuốn sách phù thủy cổ luôn kích thích trí tò mò của tôi, và...tôi phải thú nhận rằng sự huyền bí khiến tôi hào hứng, cô vừa nói thêm và cố nở một nụ cười.

Anthony hướng một bên lông mày, anh ta đã được gãi đúng chỗ ngứa. Chứng kiến toàn bộ câu chuyện, Camelia không thể tin nổi thái độ bất thường của Juliette.

- Thế thì để tôi dẫn các cô vào tận cùng của thư viện, vào tận hang ổ của những kiến thức về địa ngục! Nhất định các cô sẽ thích.

Anh ta mất hút trong một lối đi giữa các giá sách đồ sộ rồi dừng lại ở một góc tối tăm. Từ chỗ đó, anh ta quay về phía Camelia và Juliette đang lùi lại phía sau để dõi theo. Anh ta vẫy tay với họ như để nói lời tạm biệt.

Rồi biến mất.

Như có phép thuật.
 

hoahongden12

Active Member

Anh ta biến mất hẳn trước mắt họ.

Anthony Desaux vừa thực hiện giấc mơ cổ xưa nhất của con người kể từ thời Trung cổ: tàng hình. Anh ta thu mình vào một góc của thư viện, rồi biến mất tăm. Giống như nhân vật trong truyện của H.G. Wells hay của Marcel Aymé, nhà triệu phú biến mất như người đi xuyên tường.

- Anh Desaux? Juliette thì thầm.

Camelia cũng lên tiếng gọi.

Họ nhìn nhau rồi cùng bước chậm vào lối đi tối tăm. Những chiếc giá chất đầy sách hiếm đã sờn bao quanh họ, giống như một thung lũng kiến thức buồn tẻ.

- Anthony? Camelia gọi.

Juliette theo sát Camelia. Cô định cất tiếng gọi nhà triệu phú thì một bàn tay bỗng đặt lên vai cô khiến tiếng gọi của cô biến thành tiếng thét sợ hãi.

- Rất tiếc vì đã làm cô sợ, Juliette ạ, Anthony nói, không giấu giếm vẻ thích thú. Tôi không thể làm khác được, vì với tôi khuôn mặt của một phụ nữ đang sợ hãi đôi lúc cũng đẹp như khi cực kỳ vui sướng vậy.

- Anthony! Anh làm chuyện quái quỷ gì thế? Camelia rất thán phục tình huống thú vị này.

- Ngôi nhà này có nhiều lối đi được ngụy trang cùng loạt cửa bí mật. Các cô không thấy tôi biến mất vì cánh cửa ẩn sâu trong một chỗ hõm.

Tim Juliette mới chỉ lấy lại được nhịp đập ở mức có thể chịu đựng được. Trong một thoáng, cô suýt cho anh ta một cái tát. Cô ghét nhất là bị nghi ngờ như vậy! Làm cô sợ là việc cuối cùng để thu hút cảm tình của cô.

- Nhưng tôi nghĩ là mình cần phải xin lỗi ngay, anh ta nói khi thấy ngọn lửa giận dữ bốc ngùn ngụt trong mắt Juliette. Hãy đi theo tôi.

Họ cùng đi tới chỗ mà anh ta vừa mới biến mất vài phút trước đó. Anthony lướt các ngón tay dưới một kệ sách, ngay lập tức, một tấm ván gỗ trượt trong bóng tối không hề gây tiếng động. Họ bước vào một căn phòng khác rõ ràng nhỏ hơn nhưng cũng có vẻ bề ngoài không kém phần bí hiểm. Anthony bật một ngọn đèn nhỏ.

Những giá sách chất đầy sách cổ phủ kín các bức tường không cửa sổ. Phải có đến hai hoặc ba trăm cuốn sách đủ mọi kích cỡ, từ những cuốn cũ nát nhất chỉ còn đứng được nhờ giá thép, đến những cuốn mới nhất mà một số trang không thể đọc được vì bị dính liền nhau ở phần trên. Ngoài ra, có vài mạng nhện, bụi bặm và mùi da cũ trong căn phòng hình bát giác này.

Rồi Juliette thấy một vật nằm yên giữa phòng.

Một chiếc ghế bằng sắt đã hoen gỉ.

Nhưng những chỗ tỳ tay của ghế đã mòn vẹt và dây xích bị oxy hóa khiến người ta không phải nghi ngờ gì về chức năng của nó nữa.

- Đừng quá xúc động, chủ nhà lên tiếng. Dụng cụ tra tấn này đã không còn được sử dụng từ hơn hai thế kỷ nay.

- Dù sao cũng… đáng sợ, Juliette vừa nói vừa đi quanh chiếc ghế.

- Một kỷ vật cũ của gia đình…

Giờ thì Juliette đã hiểu vì sao Camelia lại miêu tả anh bạn triệu phú của mình như một con người kỳ quặc hơi đặc biệt.

- Nếu cô muốn xem sách về ma thuật, thì chúng đây, anh ta nói với cô, tay làm một động tác rất kịch để giới thiệu những cuốn sách được cho là nói về tà thuyết.

Juliette lại gần và bắt đầu chậm rãi đọc. Nói chung, những tên sách đó cô có đọc được không hề quen thuộc, chúng không gợi lại bất cứ điều gì mà cô từng biết: Daemoniomicum; Unausprechlichen Kulten; Malleus Maleficarum; Liber Ivonis; phép thuật đích thực… Cô chẳng dùng được cuốn nào. Phần lớn chúng thậm chí không được viết bằng tiếng Anh mà bằng tiếng Latin, Pháp, Đức hoặc Hy Lạp cổ. Toàn những ngôn ngữ mà cô không biết.

Thực ra, ngay khi Anthony Desaux nói ra từ phù thủy, khuôn mặt của Leland Beaumont đã hiện lên trong đầu cô. Brolin từng nói cho cô biết là Leland khiến đồng nghiệp sợ vì hắn thường nói đến phù thủy, hắn đam mê phép thuật. Cô vừa hy vọng tìm được một chỉ dẫn trong kho sách huyền bí rộng lớn này, nhưng giờ đây khi đã thấy nó, cô biết rằng điều đó là không thể. Có quá nhiều sách, quá nhiều rào cản về ngôn ngữ, từ vựng, và nhất là không có đủ thời gian.

- Sao anh lại có một căn phòng như thế này trong nhà nhỉ? Camelia hỏi, giọng đầy phấn khích.

- Với một kẻ mê chơi sách như anh, em nghĩ rằng anh lại không có một bộ… (anh ta tìm kiếm từ ngữ thích hợp) cứ cho là sách cấm ư?

- Em không nghĩ là anh còn giấu nó sau một cánh cửa bí mật!

Anthony tự tin ngắm nhìn những cuốn sách quanh mình rồi giải thích:

- Tất cả các thư viện lớn trên thế giới đều có những cuốn sách bị nguyền rủa. Những cuốn sách cấm. Bảo tàng Anh quốc, Thư viện quốc gia Paris, Thư viện Vatican, nhất là ở thư viện này, anh ta vừa nhấn mạnh vừa mỉm cười. Tất cả đều có một kho sách lớn không mở cửa rộng rãi cho công chúng. Các cô có biết người Pháp gọi căn phòng bí ẩn nơi chứa những cuốn sách bị nguyền rủa là gì không? Họ gọi nó là địa ngục. Tôi thấy như thế là khá rõ ràng. Thông thường, rất ít nhân viên được tiếp cận với Địa ngục, thậm chí đôi khi phần lớn mọi người còn không biết đến sự tồn tại của nó. Một số thư viện nổi tiếng phủ nhận sự hiện diện của những căn phòng như thế trong cơ ngơi của họ, họ canh giữ nghiêm ngặt những cuốn sách ấy và chú ý giám sát không cho ai tra cứu chúng.

- Vì sao? Juliette hỏi, bỗng nhiên cô cảm thấy kích thích quan tâm đến thế giới huyền bí.

- Bởi vì một số cuốn sách cổ chứa đựng những bí mật mà nhiều người không muốn nghe thấy!

Anh ta gần như hét lên để trả lời, choáng ngợp bởi niềm đam mê.

- Có những cuốn sách, anh ta nói tiếp bằng giọng văn dịu hơn, không nói về Kinh Phúc âm như mọi người vẫn biết! Ẩn trong những trang sách mốc có thể là sự thật về thế giới của chúng ta hoặc về nguồn gốc của chúng ta. Và nếu Thượng đế không phải như chúng ta vẫn nghĩ thì sao? Rốt cuộc, Giáo hội đã kiến tạo cho Thượng đế một hình ảnh qua năm tháng, qua một thời kỳ mà ở đó giáo hội còn đầy quyền năng, còn kiểm soát được tất cả những gì được viết ra và được truyền lại. Nhưng có thể còn tồn tại những văn bản cổ phản ánh sự thật, những văn bản mà các tác giả của chúng ta không chịu bị chi phối bởi trí tưởng tượng của giáo hoàng, hay những văn bản cổ hơn, có lẽ là những ghi chép đầu tiên về các sự kiện xảy ra từ rất lâu rồi. Từ hai nghìn năm nay, tôn giáo đã kịp thu phục thế giới, buộc thế giới phải làm theo ý mình và xây dựng nên đời sống tâm linh như nó mong muốn. Thế nhưng tôi biết là có sự tồn tại của những văn bản nói về các bí mật lịch sử một cách chân thực nhất và chúng vẫn chưa bị tiêu hủy. Chính vì thế mà người ta không đưa tất cả sách vở ra phục vụ đông đảo độc giả.

- Anh đã đọc cuốn sách nào trong số đó chưa? Juliette hỏi.

Anthony Desaux đặt ngón tay trỏ lên miệng.

- Im lặng là cái giá của sự thật.

Juliette coi đó là câu trả lời khẳng định. Là người có thế lực, giàu có và đam mê sách vở, anh ta hẳn đã có dịp được mở cánh cửa của vài Địa ngục trên khắp thế giới. Camelia không hề nhầm, đây đúng là một con người kỳ quặc nhưng rất thú vị.

- Thế còn những cuốn sách mà anh sở hữu, chúng nói về điều gì? Cô hỏi thêm.

- Về nhiều điều, cô gái thân mến ạ, còn tùy vào việc cô tìm kiếm điều gì. Chủ yếu là về khoa học thần bí, nhưng cũng có những cuốn nói về quỷ Satan, đạo Vaudou, nhiều lắm! Tôi còn có cả sách nói về cái chết.

Nói xong, anh ta đặt tay lên một cái giá để kinh hát lễ to đùng đặt sau chiếc ghế tra tấn. Cái giá được gia công hết sức công phu, hàng trăm móng vuốt được trạm trổ vào gỗ dọc theo chân giá. Trên cùng đặt một cuốn sách rất lớn, bìa bọc da, không có tựa đề, chỉ được trang trí duy nhất bằng hình một đầu lâu ghê rợn dập nổi trên da.

- Hình như anh có biết chút ít về đề tài này, Juliette đánh liều nói.

Anthony đút hai bàn tay to khỏe vào túi quần.

- Chút ít thôi, anh ta đáp.

- Anh có thể cho tôi biết vài khái niệm sơ đẳng, hoặc những giai thoại mà tất cả những người yêu thích đề tài này thường xuyên truyền tai nhau không?

Tiếng cười của Anthony Desaux rất trầm và bay lên không trung như tiếng rồng vỗ cánh.

- Cô muốn tập làm phù thủy chăng?

- Tôi đã nói với anh rồi đấy, tôi luôn thích những gì hơi… huyền bí, Juliette thừa nhận.

Quả là Camelia không thể tin nổi điều mà cô đang thấy. Juliette vốn dửng dưng với những câu chuyện thần tiên và huyền bí, giờ đây lại sử dụng sức quyến rũ của mình để được nghe giải thích những khái niệm căn bản nhất của chủ đề này. Camelia biết khá rõ Juliette, đủ để hiểu rằng cô bạn mình không mảy may quan tâm đến Anthony trên phương diện tình cảm, điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Điều khiến Camelia ngỡ ngàng hơn cả là chứng kiến Juliette dùng đến ánh mắt đong đưa, khéo léo hơi ưỡn bộ ngực tròn trịa, và nhất là sử dụng nụ cười tự nhiên, thứ vũ khí chí mạng đối với người tinh khôn Homo sapiens đang đứng trước mặt cô. Juliette đang quyến rũ anh ta để đạt được thứ mà cô mong muốn.

Camelia có lẽ không bao giờ tin được rằng Juliette có khả năng làm việc này. Còn Anthony, một người tinh ranh và từng trải, không dễ mắc lừa. Anh ta đùa giỡn, dùng mắt uống lấy thứ mà cô gái tặng cho, đáp lại cô bằng những kiến thức cần thiết của mình để vở diễn tiếp tục.

- Nhìn chung, nhiều người nói đến hiện tượng siêu linh và khoa học huyền bí với thái độ hạ cố, thậm chí kinh tởm. Nhưng để kích thích trí tò mò của cô, tôi sẽ kể một giai thoại.

Nói xong, anh ta bắt đầu bước chậm rãi trong căn phòng, lúc thì quay về phía Juliette, lúc lại quay về phía Camelia. Dưới bước chân đều đặn của anh ta, sàn nhà kêu răng rắc, điểm thêm vào lời nói của anh ta bằng những tiếng kêu kèn kẹt thê lương.

- Các cô biết thuật giả kim là gì không? Đó chính là “nghệ thuật” kỳ lạ biến chì thành vàng. Thế này, kể từ khi Mendeleiv lập nên bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học vào thế kỷ XIX, chúng ta biết rằng nguyên tố được coi gần giống vàng nhất chính là chì. Vì vậy, chì được sử dụng trong các thí nghiệm trên máy gia tốc hạt và trong các phòng thí nghiệm khác để thu được vàng. Hẳn các cô sẽ rất ngạc nhiên vì người ta đã làm được điều này! Nhưng chi phí vận hành các máy móc đó đắt tới mức lượng vàng thu được không đáng kể gì. Dù sao thì đây cũng là bằng chứng cho thấy việc biến chì thành vàng là hoàn toàn có thể, “thuật giả kim hiện đại” đã chứng minh điều này. Bây giờ liệu các cô có thể giải thích cho tôi làm thế nào mà con người ở thế kỷ X lại biết cần phải dùng chì chứ không phải bất cứ loại chất nào khác để thu được vàng không? Làm thế nào mà từ một nghìn năm trước thí nghiệm đầu tiên của chúng ta, con người đã đoán ra được rằng chì là nguyên tố hóa học gần với vàng nhất và là nguyên tố thích hợp nhất để đạt được sự biến chuyển? Khi mà họ không hề có bất cứ khái niệm nào về nguyên tử, kính hiển vi hay khái niệm sơ đẳng nhất về nguyên tử lượng! Bởi vì các nhà giả kim này đã không thử với thạch cao, đá lửa hay granit, mà là với chì! Họ biết điều đó.

- Làm sao họ có thể đoán được? Juliette hỏi, cô thực sự tò mò.

- Đây mới chính là vấn đề! Mà tôi không biết gì cả, thế mới là huyền bí, một lĩnh vực bí ẩn vô cùng rộng lớn mà lại có rất ít câu trả lời.

Đoạn nhập đề của anh ta đã đạt được mục tiêu đề ra, Juliette và Camelia đều bị cuốn hút.

Juliette chợt nhớ lại hàng giờ liền ngồi nghiên cứu ở thư viện suốt hai ngày qua. Cô hỏi:

- Anthony, anh biết Thần khúc của Dante chứ?

- Tất nhiên rồi, ai mà không biết một tác phẩm như thế?

- Tôi đặc biệt quan tâm đến phần thứ nhất, “Địa ngục”. Quả thực, tôi nhận thấy chất trữ tình tuyệt vời, nhưng về mặt… bí hiểm, Thần khúc có tầm quan trọng nào đó không?

Nhà triệu phú hất món tóc trắng ra phía sau.

- Có, có thể nói như thế. Với một số người say mê môn khoa học huyền bí, thì thần khúc không khác gì cuốn sách hướng dẫn đi tới thế giới bên kia. Có thể điều này khiến cô buồn cười, nhưng thực sự có những người nghĩ rằng đây là một câu chuyện có thật được kể lại dưới dạng thơ cho nhẹ nhàng hơn và làm giảm độ tin cậy, giúp Dante được yên ổn vào thời của ông. Nhưng vẫn còn những người có thể xác thực với cô rằng phần đầu tiên trong tác phẩm này là bản đồ chi tiết của Địa ngục! Với họ, Thần khúc có lẽ là tác phẩm hoàn chỉnh nhất và thành công nhất, một cuốn kinh thánh!

Juliette chầm chậm gật đầu mà bản thân cô không nhận ra. Cô biết ít nhất một kẻ cũng suy nghĩ như vậy. Một kẻ mà với hắn ta, giết người không mang ý nghĩa đạo đức như xã hội vẫn nghĩ. Một kẻ không giống mọi người mà gần với quỷ hơn.

Anthony đứng dang tay như Chúa cứu thế giữa thư viện riêng của quỷ hiện thân.

- Bây giờ, hãy để tôi kể cho các cô về những huyền thoại nổi tiếng nhất của khoa học huyền bí và phép thuật.

Rất xa họ, trong một căn phòng rộng mênh mông, vang lên tiếng chuông duy nhất của đồng hồ quả lắc, báo hiệu đã hai mươi ba giờ rưỡi đêm.
 

hoahongden12

Active Member

Năm xe hòm bọc thép, ba mươi tư cảnh sát đặc nhiệm được trang bị đầy đủ – áo chống đạn Kevlar, mũ bảo hiểm và súng Heckler amp; Koch MP5 – và mười chín cảnh sát do trụ sở trung tâm cảnh sát Portland cử tới bao vây bãi xe của bệnh viện Shriners và trường Y. Một chiếc trực thăng của cảnh sát giao thông sẵn sàng can thiệp, đậu cách đó vài trăm mét trên khu đất của một trại xăng cũ đằng sau trường đại học. Ba lối vào chính của bãi đỗ xe được giám sát liên tục, một chiếc xe hòm sẽ chắn ngang lối đi ngay khi có lệnh phát qua radio hoặc bộ đàm. Nhiều người được bố trí ở các cổng khác nhau của bệnh viện, vì có thể, trong trường hợp xấu – kẻ tình nghi trốn chạy vào các hành lang ngoắt ngoéo. Với một đội hình đông đảo như vậy, rủi ro không được phép xảy ra. Khi có lệnh, cảnh sát đặc nhiệm sẽ phong tỏa các cổng, không ai có thể tự do ra vào. Kẻ tình nghi bị mắc kẹt, rơi vào bẫy.

Vấn đề nan giải nhất là lượng người ra vào bãi đỗ xe . Lúc nào cũng rất đông người và không ai muốn xảy ra một vụ bắt con tin. Nhất là Brolin, vì cũng giống như mọi nhân viên FBI, anh đã theo một khóa đào tạo về thương thuyết và anh biết đến mức độ nào thì kết cục có thể là công cốc.

Vượt lên trên tất cả, khẩu hiệu chính của chiến dịch này là bí mật. Không được để mọi người nhận ra sự hiện diện của các lực lượng trật tự trong khắp khu vực, nếu không sẽ xôi hỏng bỏng không.

Các xe hòm bọc sắt là của ATP Seatle và vừa mới tới nơi sau bốn giờ đi đường, ATF (Bureau of Alcohol, Tobaco and Firearmes, Văn phòng rượu, thuốc lá và vũ khí; ATF đảm bảo việc thi hành luật về sản xuất và kinh doanh rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ. ATF nổi tiếng là rất quyết liệt, và người ta thường so sánh các nhân viên được lựa chọn kỹ càng của ATF với các tay cao bồi, nhưng phải thừa nhận rằng kết quả của họ nói lên tất cả. Ví dụ từ khẩu súng tìm được trong vụ mưu sát tổng thống Reagan, ATF chỉ mất chưa tới mười lăm phút để tìm ra chủ nhân của nó là John Hinckey Jr, trong khi các cơ quan khác phải mất hàng giờ, thậm chí vài ngày) đề xuất cử một số nhân viên tới hỗ trợ về mặt hậu cần, nhưng đại úy Chamberlin từ chối, lấy cớ là cơ quan này không được phép can thiệp vào lĩnh vực tư pháp. Thực ra, Micheal Chamberlin không muốn những người này có mặt tại hiện trường, ông sợ có quá nhiều người hoặc khó kiểm soát.

Tuy nhiên, các xe hòm vẫn tới rất nhanh. Đặc điểm của chúng là cũng kỳ cục như một chiếc hot-dog trên khán đài của một trận bóng chày. Trông giống như xe đưa pizza hay xe của công ty điện lực, không có biển hiệu gì, chẳng ai có thể đoán được là trong xe có nhiều thành viên xuất sắc của đội cơ động đang giám sát bãi xe qua một ống nhòm giấu trong miệng thông gió trên nóc xe. Mười bốn sĩ quan cảnh sát mặc thường phục đi đi lại lại trên các lối đi nhưng không hề bị nhận ra do bãi xe quá rộng.

Chiến dịch mới được triển khai vài giờ và chỉ được triển khai trong ba mươi sáu giờ. Quá khoảng thời gian đó, có lẽ sẽ là quá lâu để kẻ giết người liều lĩnh tới tìm xe. Tính cả các phi công trên trực thăng, có hai đội gồm năm mươi lăm người được huy động và phải thay phiên nhau qua những ca làm việc dài. Hơn một trăm cảnh sát chỉ tập trung vào “kỹ thuật tiên phong hành động” này, đây là cái tên mà Brolin đã đặt theo chiến lược của FBI. Khi đã thông báo rộng rãi trên báo chí rằng sắp bắt được kẻ giết người, thì sẽ là một thất bại nghề nghiệp thảm hại đối với chàng thanh tra trẻ nếu hắn không lộ diện.

Đã hai giờ ngồi trong chiếc xe hòm đỗ gần chiếc Mercury Capri nhất, Brolin không ngừng lật qua lật lại vụ việc, anh cảm thấy sợ vì nhận ra rằng họ đã quên mất một chi tiết mấu chốt. Bên cạnh anh, đội trưởng đội đặc nhiệm chia cho anh một chiếc cốc nghi ngút khói.

- Anh uống cà phê nhé?

Brolin lắc đầu, đội trưởng đội đặc nhiệm quay về phía sau xe hòm với năm người khác. Brolin lại dán mắt vào chiếc ống nhòm và tiếp tục quan sát xung quanh. Đêm đã buông, đã gần nửa đêm, các chủ xe xuất hiện thưa dần. Trong cuộc họp nhanh với các đội, Brolin đã nhấn mạnh rằng tất cả mọi người ở bãi đỗ xe đều khả nghi, nhưng cần tập trung chủ yếu vào những người đàn ông đi một mình hoặc hai người. Nếu không có ai lại gần chiếc Mercury thì rất khó, họ không thể quan sát tất cả mọi người, lại càng không thể nếu có rất đông người. Nhưng vào nửa đêm, bất cứ người nào đi qua cũng sẽ bị phát hiện ngay lập tức.

Brolin để ý một cái bóng vừa xuất hiện ở một cửa nhỏ của bệnh viện. Anh chỉnh ống kính lại gần và khi cái bóng đi qua dưới cột đèn, anh nhận ra đó là một phụ nữ khoảng năm mươi tuổi. Không rời mắt hoàn toàn khỏi bà ta, anh tiếp tục quan sát chiếc Mercury.

Lại một lần nữa, anh thầm làu bàu.

Chiếc xe nằm khá xa đèn cao áp, bị một khoảng bóng tối rất lớn bao phủ. Thế nhưng họ không thể liều lĩnh di chuyển nó, kẻ giết người có thể nhận ra điều đó trước khi tới gần chiếc xe.

Tai nghe của Brolin lạo xạo, anh nhận ra giọng Lloys Meat:

- Josh, có một đối tượng ở cửa phía nam. Một người đàn ông đi một mình khá nhanh về phía anh.

Brolin quay sang trái và nhận ra đối tượng tình nghi sau vài giây. Anh ta hút một điếu thuốc lá và bước rất nhanh về phía chiếc xe hòm. Rồi anh ta vứt đầu mẩu thuốc lá, chui vào một chiếc Toyota rồi phóng đi. Từ lâu, nhóm theo dõi không còn đếm số lần báo động sai nữa.

- Lại hụt, Salhindro nhận xét từ một chiếc xe được ngụy trang thành xe bình thường, Josh, anh nghĩ là hắn sẽ tới chứ?

- Có thể… Brolin thì thầm, mắt vẫn tiếp tục quan sát qua ống nhòm.

Từng phút kéo dài đến mức tưởng như nó làm chậm kim giây của đồng hồ. Hai giờ sáng hiện lên trên mặt đồng hồ quartz của chiếc xe hòm. Rồi rất chậm chạp, con số ba giờ hiện ra. Vào giờ này, sự mệt mỏi xâm chiếm thế giới xung quanh, tình trạng thiếu sự sống đem lại cho đêm đủ mọi loại quyền năng với con người, nhất là quyền làm cho họ lo lắng.

Chỉ còn lác đác vài cái bóng thi thoảng đi lại trên đường. Các sĩ quan mặc thường phục đã vào lại trong xe của họ để không gây chú ý và chờ đợi trong bóng tối.

Brolin nhớ lại những năm tháng học hành trước khi gia nhập FBI. Anh từng rất chăm chỉ, ít khi đi chơi với các bạn học của anh, những năm đại học là những đêm trọn vẹn để vui thú. Việc làm quá đà duy nhất – nếu coi như thế là quá đà – chỉ là mối quan hệ kéo dài hai năm với một cô sinh viên ngành khoa học chính trị. Nhưng cả hai đều say mê học hành, và cuối cùng cô gái có cơ hội đi Washington học lên cao hơn, họ mới quên nhau. Brolin tự hỏi không biết cô thế nào rồi và đang làm gì vào chính thời điểm này, trong khi anh phải ngồi trong chiếc xe hòm giữa đêm khuya với chiếc áo chống đạn cọ vào phần hông. Là một người bình thường, chắc cô ấy đang ngủ say, mặc dù có sự chênh lệch về giờ giấc với bờ biển phía Đông. Cô ấy tên là Gayle. Xét cho cùng cô ấy khá dễ thương, dù ít chàng trai…

- Tất cả các đơn vị chú ý, một đối tượng vừa đi bộ vào bãi xe, một giọng nói vang lên.

Josh tỉnh táo ngay lập tức.

- Người đó từ đâu tới? Anh hỏi.

- Tôi không biết, đối tượng đi ra từ dưới các tán cây, có lẽ từ khu vực trường Y.

- Tốt, tập trung chú ý nhưng đừng quên quan sát phần còn lại của bãi xe, Brolin chỉ đạo. Tôi thấy anh ta rồi. Cao trung bình, đội mũ và mặc áo khoác dạng vest có lông vũ.

- Xác nhận.

- Tôi không rời mắt khỏi anh ta. Lloyd, anh cũng để ý nhé, còn những người khác tiếp tục bao quát toàn bộ khu vực. Vẫn còn hơn một trăm chiếc xe đỗ ở đây, tôi không muốn xảy ra bất cứ một sơ suất nào.

Cái bóng bước nhanh, hai tay đút trong túi áo khoác. Có cái gì đó không ổn. Brolin không thích cách hắn vừa đi vừa ngó nghiêng xung quanh.

- Đối tượng có vẻ mờ ám, anh thông báo qua chiếc micro gắn dưới cổ áo pull. Hắn cảm thấy không an toàn hoặc hắn không muốn bị nhìn thấy. Trực thăng chuẩn bị bảo vệ khu vực.

Đối tượng khả nghi còn cách chiếc xe hòm của Brolin, cũng là cách chiếc Mercury, khoảng hai trăm mét. Nhưng hắn đi thẳng và không có vẻ gì là sẽ vòng về phía họ.

- Hình như hắn không đi về phía anh, Meats nhận xét.

- Chính xác, hắn đi về phía bệnh viện.

Đội trưởng đội đặc nhiệm lại gần Brolin từ phía sau.

- Anh có muốn người của tôi chặn hắn lại không? Anh ta hỏi.

- Không, chúng ta hoàn toàn không có cớ nào cả. Cũng có thể đó chỉ là một người quá căng thẳng, chúng ta không thể bắt anh ta về lý do đó.

Gã đàn ông đội mũ vẫn bước rất nhanh và lần này, Brolin nhìn thấy khói bốc lên từ miệng hắn.

- Hắn hút thuốc lá, anh nói. Có vẻ như hắn không đi qua đây. Không tốt cho chúng ta.

Brolin nói xong thì đối tượng khả nghi vứt đầu mẩu thuốc lá rồi đột ngột đổi hướng. Hắn rẽ sang phải về phía Brolin. Về phía chiếc xe Mercury.

- Ồ đổi hướng rồi, hắn đi về phía chúng tôi. Meats, hãy chuẩn bị lực lượng, chỉ can thiệp khi có hiệu lệnh của tôi.

- Rõ.

Lần này, kẻ tình nghi buông thõng hai tay, như thể chuẩn bị làm một việc xấu. Hắn đi qua dưới cột đèn, mặc dù từ đầu hắn luôn tránh việc này. Brolin dán mắt vào ống nhòm nhưng mũ hắn sụp quá sâu, anh chỉ nhìn thấy cằm của hắn.

- Anh nhìn rõ mặt hắn không? Salhindro hỏi ngay, ông theo dõi tất cả từ một chiếc xe đỗ xa hơn một chút.

- Không, đầu hắn thụt quá sâu trong áo khoác, lại thêm cái mũ che kín mặt.

Kẻ tình nghi rẽ vào giữa các hàng xe đang đậu.

Không còn nghi ngờ gì nữa, hắn đi thẳng về phía chiếc Mercury.

- Tôi muốn bắt quả tang, hãy để hắn chạm vào ổ khóa rồi chúng ta bắt hắn.

Lực lượng đặc nhiệm đã chuẩn bị sẵn sàng ở phía sau, hạ thấp lưỡi trai mũ xuống, tay nắm chặt chỗ cằm trên băng súng có đầu nhọn gắn kim cương chống trượt. Sự căng thẳng tăng lên cùng lượng adrenalin. Ai nấy đều biết rằng họ có thể đông người, luyện tập rất nhiều, vũ trang đầy đủ hơn, nhưng chỉ cần sơ suất nhỏ là một người trong số họ có thể ngã xuống, bị hạ bởi một nguyên nhân bất ngờ. Nhưng họ yêu công việc của mình. Hơi thở dồn dập, bàn tay ướt mồ hôi, họ sẵn sàng lao ra bằng cửa sau, khi đó hành động là trên hết, adrenalin hòa tan trong máu, đầu óc được huy động trong tình thế khẩn cấp ở thời điểm hiện tại chứ không phải cho những hậu quả xấu sẽ xảy ra trong tương lai.

Đội trưởng đội đặc nhiệm quay đầu về phía Brolin để chờ hiệu lệnh.

Kẻ tình nghi vừa đến đúng trước mặt, cách khoảng hơn mười mét.

- Meats, khi tôi ra hiệu, các anh hãy khẩn trương bao vây khu vực phía sau, trong lúc các anh tiến đến gần, tôi không muốn hắn kịp nấp sau chiếc Break màu xám hoặc chiếc Lincoln đằng trước. Tránh nổ súng, hắn có thể có vũ khí. Trong trường hợp tốt đẹp, hắn sẽ đầu hàng mà không chống cự, nhưng nếu hắn chạy trốn, chúng ta sẽ bao vây và siết chặt vòng vây cho tới khi cất được mẻ lưới. Không nổ súng nếu hắn không bắn trước, rõ chưa?

- Hy vọng là hắn không có ý định đó. Chúng tôi sẵn sàng.

Kẻ tình nghi đi nhanh ra phía sau chiếc xe Break mà Brolin đang để mắt tới rồi lại gần chiếc Mercury. Không có ai khác ở bãi đỗ xe, họ đang gặp may.

Kẻ đội mũ đứng yên trước cánh cửa bên ghế lái. Hắn quan sát khoảng không xung quanh rồi cắm chìa vào ổ khóa.

- Hắn có chìa khóa! Salhinro kêu lên trong micro khi thấy cảnh tượng đó qua ống nhòm. Hắn có chìa khóa!

Nhưng Brolin không để ý tới lời cảnh báo. Chiếc xe được đăng ký dưới tên của nạn nhân, và ngay cả một số bạn bè của nạn nhân cũng không ngốc nghếch đến mức vô cớ di chuyển chiếc xe. Chính tên giết người đã giữ lại một kỷ vật. Một trong số các kỷ vật.

- Trực thăng xuất phát, Brolin ra lệnh. Theo lệnh chỉ huy của tôi, tất cả các đơn vị: TRIỂN KHAI.

Tiếng lách cách của kim loại đồng loạt vang lên giữa các cột đèn, trong khi cảnh sát đặc nhiệm lao ra từ nơi ẩn nấp. Năm người lao ra từ chiếc xe hòm gần nhất cùng với Brolin theo sát gót, năm người khác từ một chiếc xe hòm khác, cách đó hai chục mét cùng với Lloyd Meats. Tám người hiện ra từ những chiếc xe khác nhau và cùng chạy về phía chiếc Mercury để nhập vào hai nhóm kia. Tiếng ầm ầm của trực thăng vang lên trên bầu trời màu đen, đèn pha sáng rực như mặt trời đêm.

Ngay khi những cánh cửa đầu tiên bật mở, kẻ đội mũ – vẻ cực kỳ căng thẳng đã chạy về phía sau rồi nhảy lên chiếc Lincoln cạnh đó.

Brolin hét to hơn cả mệnh lệnh của đội đặc nhiệm:

- Đứng yên, anh đã bị bao vây!

Nhưng kẻ tình nghi lăn trên mui xe và biến mất sau mũi chiếc Lincoln. Ngay lập tức, tất cả cảnh sát đặc nhiệm quỳ xuống và vây xung quanh. Một khi mục tiêu ra khỏi tầm mắt, người ta không thể lao theo vì nó sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào và xả cả băng đạn.

Nhóm của Meats chầm chậm tiến lại gần từ phía sau, tất cả mọi người đều cúi lom khom tới mức gần như di chuyển bằng bốn chi để làm giảm tối đa khả năng bị trúng đạn. Trước mặt Brolin, đội trưởng đội đặc nhiệm đang ra lệnh bằng tay cho các thành viên của đội. Và giống như một buổi diễn tập đã diễn đi diễn lại hàng trăm lần, cả đội triển khai lực lượng, mỗi người đều biết rõ mình phải đi đâu và làm gì. Họ sẽ siết chặt dần vòng vây cho đến khi đồng thời tóm được hắn. Những người đầu tiên xông ra sẽ mang lá chắn đạn để bảo vệ cả nhóm, trong khi đó khoảng cách một chục cây súng chĩa vào mặt hắn, chỉ cách hắn vài centimet.

Cách đó khoảng mười mét, mọi người chạy tới, mang theo lá chắn để đảm bảo an toàn tối thiểu.

Trực thăng gần tới nơi, nó có thể làm lóa mắt kẻ tình nghi nhờ đèn pha chiếu sáng vào thời điểm tấn công.

Rồi phát súng đầu tiên phá tan màn đêm khá yên tĩnh.

Người đi trước Brolin gục xuống rên rỉ.

Brolin vội nằm xuống đất, tiếng súng bắt đầu rít lên. Hơn mười lăm khẩu pháo dồn dập bắn vào mục tiêu.

Một cơn mưa vỏ đạn rơi vào anh thanh tra khi viên cảnh sát đặc nhiệm đứng gần nhất xả hết băng đạn lên chiếc Lincoln. Những tiếng nổ vang lên chát chúa như tiếng búa của vị thần Vulcain đập lên đe, tạo nên những tia chớp ngắn trên vỏ xe. Đèn pha cực mạnh chiếu từ trên trời xuống, phủ lên hiện trường lớp ánh sáng trắng lóa, trong khi phi công cho máy bay tăng thêm độ cao để tránh đạn lạc. Trời lặng gió nên có thể ném hai quả lựu đạn hơi cay. Và tiếng súng im bặt như có phép màu, tất cả các súng đã hết đạn. Hai giây sau, một băng đạn ba mươi viên được lắp vào các khẩu MP5 và cảnh sát đặc nhiệm chạy lên phía trước, lao vào đám khói như một con nhện khép cả tám chân của nó vào cùng một lúc.

Lá chắn đạn đập vào nhau, vũ khí chĩa vào nhau, trực thăng đứng bên cạnh chiếu xuống đội quân tinh nhuệ thứ ánh sáng của một buổi chiều hè.

Qua làn khói hơi cay cuối cùng hiện ra những gì còn lại của một kẻ bắn tỉa đơn độc.

Một vỏ đạn.

Không hơn không kém.

Tiếng máy trực thăng kêu càng to hơn, làm run rẩy vòng tròn sáng trắng trên mặt đường trơ trụi.
 

hoahongden12

Active Member

Năm giờ sáng, Juliette mới ngủ được một tiếng thì tiếng chuông cửa làm cô thức giấc.

Cô khó nhọc mở mắt vẫn chưa nhận ra đây không phải là tiếng chuông cửa trong mơ. Nhưng một tiếng chuông nữa kéo cô ra khỏi cơn buồn ngủ. Tim cô đập nhanh, nhịp tăng gấp bốn lần chỉ trong vài giây. Cô muốn đứng dậy nhưng máu dồn lên đầu lại khiến cô ngã vật xuống giường.

- Được rồi, để tôi tỉnh ngủ đã nào! Cô lẩm bẩm và lại đứng dậy nhưng chậm hơn.

Cô xỏ chiếc áo choàng và nhẹ nhàng bước xuống nhà mà không bật đèn.

Một bóng người đứng trước bậu cửa hiện rõ qua khe cửa trên cao. Bỗng nhiên cô nhớ lại tất cả. Những ngày gần đây các nạn nhân mới, hồn ma Leland, đêm khuya điên rồ trong địa ngục của Anthony Desaux. Liệu có phải kẻ giết người không? Có phải hắn muốn kết thúc việc mà Leland đã bắt đầu từ một năm trước?

Không, hai cảnh sát canh gác trước cửa nhà cô hẳn sẽ không cho hắn đến gần.

"Trừ khi họ đã chết!

Juliette đi quanh cửa ra và cố gắng nhìn ra ngoài đường qua khe cửa chớp. Chắc chắn phải có xe canh gác ở đằng trước, có thể cô sẽ thấy bóng người qua lại, một đốm sáng của thuốc lá, hay bất cứ điều gì cho phép cô tin rằng họ vẫn còn sống.

Nhưng làm sao có thể nhìn thấy đường phố qua cửa chớp được, phải mở nó ra.

Lại một tiếng chuông nữa. Juliette giật nảy mình, cô suýt hét lên vì tiếng kêu rất to trong bóng tối của ngôi nhà.

- Juliette đấy à? Joshua đây, một giọng nói vang lên sau cánh cửa.

Joshua ư? Vào giờ này sao? Cô chợt hiểu rằng có chuyện gì đó nghiêm trọng mới xảy ra. Bố mẹ cô!

Cô chạy vội ra tháo chốt rồi mở cửa.

Joshua Brolin đứng bên thềm, anh định quay đi.

- Có chuyện gì thế? Cô hỏi ngay.

Brolin nhìn cô, thấy chiếc váy mặc ở nhà, những lọn tóc đen rối vào nhau rủ xuống trước đôi mắt màu Saphire và nét mặt vẫn còn đờ đẫn của cô.

- Hình như anh đánh thức em.

- À...vâng, mới năm giờ sáng, vâng.

Brolin đưa tay lên mặt như để xóa đi điều mà anh vừa nói và cũng để xóa đi ký ức về tối vừa qua, về mười ngày gần đây.

- Có chuyện gì vậy? Có tai nạn gì sao?

Lần này Juliette không lo cho bố mẹ mình nữa. Qua nét mặt quá mệt mỏi, buồn rầu của Brolin, cô hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì đó rất quan trọng với anh. Có lẽ anh không ngủ hoặc ngủ rất ít từ lâu rồi, và nỗi lo lắng đè nặng lên mỗi nét mặt anh, đến nỗi tạo nên những rãnh đen ở nơi mà tuần trước chỉ là những vết nhăn mờ. Các cử chỉ của anh không còn tự tin như trước, Juliete thoáng nghĩ hay là anh say rượu. Nhưng anh không hề uống giọt rượu nào suốt cả ngày, anh như bị lạc lối. Lạc lối trong mớ bòng bong những suy nghĩ không lối thoát, lún sâu trong cơn kiệt sức.

Brolin nhìn cô bằng con mắt mệt mỏi.

- Anh... rất tiếc, lẽ ra anh không nên tới...

Anh định quay đi thì Juliette kéo tay anh.

- Anh không thể đánh thức em rồi lại đi ngay, anh vào đây.

Anh để cô dắt đi như một đứa trẻ. Juliette đưa anh vào phòng khách rồi chạy đi đun nước. Khi cô trở lại, anh đang hai tay ôm đầu. Cô ngồi xuống bên cạnh và vòng tay qua vai anh.

- Josh?...Có chuyện gì vậy?

Anh ngước mắt về phía nhà bếp, nhìn vào chỗ sáng để tìm điểm tựa.

- Hỏng bét rồi... Anh thú nhận. Chẳng ra gì cả.

Juliette nhíu mày, cô vẫn chưa hiểu.

- Bọn anh đã có cơ hội để tóm cổ hắn, thế mà lại để hắn tuột khỏi tay. Bọn anh quá vội vã, đã mật phục hàng giờ liền nhưng lại quên một...chi tiết.

Ánh mắt Juliette dừng lại trên mặt Brolin, vuốt ve đôi môi anh để anh nói ra, rồi vuốt ve đôi mắt anh để anh không trốn chạy nữa.

"Lẽ ra anh phải đoán trước được việc này. Quạ đã thông báo cho chúng ta, nhưng anh lại không hề nghĩ đến nó một giây nào."

Anh quay đầu lại nhìn Jullitete.

- Bọn anh đã giăng bẫy kẻ giết người đêm hôm qua và hắn đã trốn thoát bất chấp tất cả mọi thứ được dàn sẵn. Lẽ ra không ai có thể thoát, kể cả một con kiến. Lực lượng đã được rải khắp khu vực, từng xó xỉnh, từng lối ra vào, ngay cả trên trời. Cảnh sát kiểm soát được tất cả trừ một yếu tố.

Trong bếp, nước bắt đầu sôi.

- Hắn đã bắn một người của quân ta và bọn anh lao vào hắn. Nhưng hắn biến mất. Như một tên phù thủy!

Juliette rùng mình.

"Mọi người chiếu đèn pin vào dưới gầm các xe xung quanh, nhưng không có ai cả, và vì toàn bộ khu vực đã bị bao vây nên không có gì chạy qua mà bọn anh không nhận thấy. Nhưng khi quay trở lại chỗ hắn biến mất anh mới hiểu. Cảnh sát đã giám sát tất cả, trừ một nơi, cống thoát nước. Có một nắp cống ở chính nơi mà hắn đã đứng trước đó vài phút. Anh không biết có phải hắn đã tìm ra nắp cống từ trước để chạy trốn trong trường hợp bất trắc hay tình cờ gặp may và chuồn đi kịp thời. Anh đã cử khoảng ba chục người chui xuống cống nhưng hắn đã biến mất. Hắn dùng cống để thoát khỏi chúng ta, dường như chính những đường ống cống này là Địa ngục trong ảo ảnh của Quạ".

- Nếu biết được, báo chí sẽ làm ầm lên mất, Juliette thì thầm bằng giọng kém tự tin hơn cô mong muốn.

Cô chợt cắn môi vì đã không nói được gì an ủi anh mà còn xoáy thêm vào nỗi đau của anh. Một nụ cười chán nản hiện lên môi của Brolin.

- Em không xem bản tin tối qua sao? Anh hỏi. Với những gì cảnh sát đã khẳng định, họ sẽ không để yên nếu anh không sớm bắt được tên khốn đó. Một tên khốn tinh ranh hơn chúng ta.

- Đừng nói thế, em tin chắc là anh đã làm tất cả những gì có thể. Làm sao có thể trăm trận trăm thắng được, nhưng em tin ở anh, em biết là anh sẽ tóm được hắn. Em bắt đầu hiểu anh. Nếu kẻ giết người để lại một dấu vết dù là nhỏ nhất thì em tin chắc anh có thể lần theo được dấu vết đó, anh không bao giờ buông xuôi.

Brolin nhìn Juliette bằng ánh mắt trống rỗng vì mệt mỏi. Anh muốn làm bất cứ điều gì để cô ôm anh trong vòng tay, có thể áp sát vào người cô ngủ ngon lành bên cơ thể ấm áp của cô.

- Chưa phải đã hết hy vọng, cuối cùng anh thừa nhận. Hắn đi găng, nhưng cảnh sát đã tìm được một đầu mẩu thuốc lá mà hắn vứt đi. Cũng đủ để lấy ADN từ mẫu nước bọt của hắn. Nhưng nếu hắn chưa từng gây án liên quan đến tình dục, thì chúng ta sẽ không có dấu vết của hắn trong hồ sơ. Có được dấu vân tay thì tốt hơn.

- Bao giờ anh có kết quả?

- Đầu mẩu thuốc lá được gửi đến phòng thí nghiệm để "ưu tiên" xử lý. Phải mất thời gian để lấy mẫu ADN và so sánh với hồ sơ lưu trữ, anh không thể biết kết quả trước tối mai, à xin lỗi, tối nay. Muộn nhất là ngày mai.

- Thế thì chưa phải đã hết hy vọng. Việc đó không phải là vô ích. Còn viên cảnh sát bị bắn bây giờ thế nào rồi?

- Ổn rồi, chiếc áo chống đạn đã có tác dụng. Đó chỉ là súng cỡ nhỏ. Chỉ gây sợ nhiều hơn đau.

Brolin úp mặt vào hai tay. Juliette rụt rè đưa tay về phía anh rồi vuốt tóc anh.

- Anh cần được nghỉ ngơi. Anh không ngủ từ bao lâu rồi?

Brolin nhún vai. Anh chẳng có chút ý niệm nào.

- Anh có thể ở lại đây nếu anh muốn. Em sẽ rất vui. Thực ra em muốn nói là việc ấy không hề làm phiền em, cô chữa lại.

Cô không muốn anh nhận thấy rằng cô mong có anh ở bên suốt thời gian còn lại của đêm.

- Anh về nhà thì tốt hơn, lát nữa anh phải có mặt ở trụ sở trung tâm.

- Nếu không chớp mắt một chút, anh sẽ không thể đi đâu được đâu. Ngay cả Starsky và Hucth đôi khi cũng phải nghỉ ngơi đấy!

Cô đã khiến anh cười được.

- Cứ ở lại đây, em sẽ đem cho anh một ít đồ uống và chúng ta là những kẻ nghiện duy nhất ở thành phố này, anh biết loại lá khô mà người ta gọi là trà hoa quả rừng này đấy.

Brolin gật đầu, môi anh mấp máy lời cảm ơn nhưng lại không phát ra âm thanh nào.

Juliette biến mất trong bếp để chuẩn bị một khay đồ uống. Khi quay lại phòng khách, cô thấy Brolin ngả đầu trên tay ghế sofa. Nét mặt bớt căng thẳng, như được giãn ra khi nghỉ ngơi.

Mắt nhắm nghiền, hơi thở nhẹ, anh đang ngủ ngon lành.

Cô đặt khay xuống rồi lấy chăn đắp cho anh.

Rồi cô tắt điện trong bếp.

Hai cốc trà vẫn còn bốc khói.
 

hoahongden12

Active Member

Rất ít ánh sáng lọt được qua lớp rèm cửa dày của phòng khách, nhưng cũng đủ để đánh thức Brolin. Mi mắt anh chậm chạp mở ra, chớp chớp. Rồi anh ghi nhận những thông tin đến với trí não mình. Juliette nhìn anh bằng cặp mắt trong màu xanh. Cô nằm dài trên ghế sofa đối diện và nhìn anh như một người mẹ trẻ nhìn đứa con mới sinh. Hai tròng mắt cô bất động, một tia nắng len lỏi qua lớp rèm cửa chiếu vào làm mắt cô ánh lên như một viên đá quý. Ngoài ra, chỉ có tiếng côn trùng vo vo khó chịu. Một con ruồi to màu đen bỗng đậu lên khóe mắt Juliette.

Mặt trời chiếu thẳng vào đôi mắt mở to, nhưng cô không chớp mắt.

Giờ đây, con ruồi đang nhảy nhót bằng mấy cái chân mảnh mai của nó trên nước da hồng hào. Nó quay tròn để tìm kiếm thứ gì đó. Brolin cảm thấy mình tập trung nhìn con ruồi, như một chiếc camera quay cận cảnh, anh thấy nó rõ mồn một. Con ruồi uốn cong cái bụng rỉ nước, rung rung cánh, phần đuôi nó phình to, và một ít chất lỏng màu trắng phọt ra từ đít nó. Con ruồi nhún nhảy trên khóe mắt cho đến khi chất lỏng màu trắng đó thấm sâu vào da thịt mềm mại. Con ruồi có vẻ sung sướng, nó cọ cọ chân sau và hút một ít dịch trong cơ thể bằng cái vòi ghê tởm rồi bay đi.

Juliette không động đậy, chỉ nằm yên phăng phắc, cô để mặc con ruồi to màu đen đẻ trứng trong mắt cô, rồi từ đó sẽ nở ra hàng chục con giòi, chúng sẽ khoét sâu đến tận dây thần kinh mắt của cô để tìm thức ăn.

Hai mắt cô chăm chú nhìn Brolin không chớp.

Brolin đã hiểu, tim anh như vỡ ra.

Anh nhào ra khỏi chỗ nằm và thấy phần còn lại của cơ thể cô. Tấm chăn được kéo xuống dưới hông Juliette, để lộ bộ ngực trắng ngần. Những vệt đỏ dài loang lỗ trên ghế sofa.

Juliette nằm yên, đã chết. Họng há ra như một nụ cười ma quỷ.

Brolin thét lên.

Một bàn tay ấm áp đặt lên má anh.

- Em đây, Josh, Juliette đây, anh đã gặp ác mộng... em đây... bình tĩnh lại đi anh.

Anh mở mắt, hơi thở gấp gáp, hai bàn tay run rẩy. Juliette đứng ở đầu giường, đầu cúi xuống để vỗ về anh.

Cô vẫn bình an, mắt cô ánh lên niềm vui sống. Chỉ là một cơn ác mộng mà thôi.

Anh dần dần lấy lại tinh thần.

- Đúng là anh cần phải nghỉ ngơi, cô nhận xét. Anh cứ rên rỉ suốt.

- Anh... Anh rất tiếc.

- Không sao đâu, vì thế mà bản năng người mẹ trong em được thức tỉnh, cô vừa đáp vừa nháy mắt.

Nhìn thấy tấm chăn trên chiếc ghế sofa đối diện, Brolin hiểu là cô đã thức để trông anh. Đúng như trong giấc mơ của anh.

- Lẽ ra anh không nên kéo em vào chuyện này, anh nói, đầu óc vẫn nặng nề vì những cảnh tượng kinh hoàng.

- Giờ thì hơi muộn mất rồi! Dù sao thì em cũng đã liên quan đến vụ việc. Kẻ giết người bắt chước Leland, còn em là “nạn nhân” cuối cùng của Leland. Anh không thể thay đổi gì được.

Brolin định dứng dậy nhưng nhận ra chân anh không đi giày. Cô đã cởi giày giúp anh.

- Đúng là một người mẹ thực sự, anh nhận xét.

Cô biến vào bếp và trở lại sau vài giây với một cái khay đầy các loại đồ ăn.

- Đã hơn 11 giờ rồi, vì thế em làm mỗi thứ một ít, cho cả bữa sáng và bữa trưa.

Trong lúc họ cùng ăn rất ngon miệng, dù họ không tin là có thể ăn ngon miệng đến thế trong hoàn cảnh này, Juliette quyết định rằng đã đến lúc phải thông báo về các nghiên cứu của mình.

- Anh biết không, em cũng không bỏ phí thời gian trong đêm qua. Thực ra, em thậm chí đã tìm hiểu được nhiều điều rất hay.

- Cho việc học của em ư?

- Không, về Leland.

Đang định cắn một miếng hoa quả, Brolin bỗng dừng lại, hàm há to.

- Vâng, em đã ăn tối cùng Camelia ở nhà một anh bạn của chị ấy. Anh ta có lượng kiến thức đáng kinh ngạc về khoa học huyền bí. Đó chính là thứ mà Leland say mê, đúng không?

- Đúng... đó là đam mê của hắn, Brolin ấp úng.

- Em đã nói chuyện với con người thông hiểu khoa học huyền bí đó, và anh ta đã giảng giải cho em những kiến thức sơ đẳng của ma thuật. Chỉ là... lý thuyết thôi. Anh thấy đấy, em tin rằng Leland không hề ngu ngốc.

- Đúng là đã có lúc thậm chí người ta nói rằng hắn lẽ ra có thể đã có một sự nghiệp kiểu mẫu nếu hắn không phải là một kẻ giết người hàng loạt.

- Điều đó không làm em ngạc nhiên. Nền tảng của phép thuật và tất cả những kiến thức ấy được lưu giữ trong những cuốn sách cổ không hề dễ hiểu. Nếu được viết bằng tiếng Anh – tức là rất hiếm khi – thì đó là một thứ ngôn ngữ khó hiểu, với vô số câu văn trữ tình và các ẩn dụ, và nói thật ra, em tin là để nhập tâm được, cần phải mất rất nhiều thời gian và suy nghĩ. Em đã hỏi Anthony Desaux, chuyên gia mà em đang nhắc đến, rằng liệu trên thế giới, có một cuốn sách nào về khoa học huyền bí để tham khảo không, một cuốn sách nhất thiết phải đọc để có thể tự cho là hiểu biết về lĩnh vực này.

- Rồi sao?

- Nếu Leland tự cho mình giỏi về khoa học huyền bí, thì hẳn là hắn phải đọc cuốn Al-Azif. Anh có biết đó là gì không? Sách thánh về phép thuật. Một cuốn sách rất cổ viết bằng máu trên các trang làm bằng da người. Mọi phép thuật đều được nêu ở đây, tất cả các lời khấn ma quỷ. Và theo truyền thuyết thì đây thực ra là một cuốn sách viết đè.

- Sách viết đè là gì?

- Là một cuốn sách mà người ta đã xóa chữ viết của lần đầu tiên đi để viết đè lên đó một văn bản khác. Người ta nói rằng, xưa kia sách Al-Azif chứa đựng những bí mật không ai được phép biết, rằng nếu đọc nó người ta sẽ hóa điên, vì thế nó bị xóa đi và người ta biến nó thành cuốn sách thánh ma quỷ. Abd Al Azred người Ai Cập có lẽ là người đã xóa văn bản gốc và viết văn bản mới đè lên năm 700.

- Anh định hỏi em xem cuốn sách còn tồn tại không, nhưng chắc là bây giờ chẳng còn dấu vết nào nữa.

- Về nguyên tắc là không.

- Về nguyên tắc ư? Brolin hỏi lại.

- Vâng, vì Anthony Desaux nghĩ rằng bản gốc vẫn còn, đang được giấu ở đâu đó.

- Có lẽ chỉ riêng Leland tra cứu được.

- Em cũng nghĩ như thế, nhưng sau đó em đã nghĩ lại. Mà nếu Leland tìm được bản gốc thì sao?

- Rồi thế nào nhỉ? Hắn trở nên có phép thuật như quỷ Satan và có thể đi xuyên thời gian để quay lại ám chúng ta ư? Brolin đùa.

Juliette mở to mắt như thể đây là điều ngớ ngẩn nhất mà cô từng nghe thấy.

- Chắc chắn là không rồi, nhưng có thể hắn đã nghe được câu chuyện này. Và vì Hồn ma Leland cũng làm y như vậy, nên có thể đây là một kẻ có cùng đam mê với hắn. Có thể chúng đã gặp nhau trong một thư viện, hay trong một cửa hàng bán đồ thần bí...

Brolin đồng tình. Mặc dù khá kỳ cục, nhưng ý tưởng này đáng được xem xét thêm.

- Hoan hô Juliette. Không lần nào em không làm anh bất ngờ cả.

Cô cúi đầu để giấu nụ cười ngượng nghịu.

Brolin đặt tay anh lên tay Juliette ở giữa bàn. “Cô ấy đẹp quá, anh tự nhủ. Đầy... sức sống”.

Cô ngước đôi mắt lên nhìn anh, hơi thở của anh thanh tra trở nên gấp gáp.

Thật đẹp và đầy sức sống.

Cô hơi nghiêng về phía trước và chợt run lên. Tay cô nắm chặt tay Brolin.

Một cuốn sách viết đè.

Cô nắm tay thật chặt như để kìm nén một ham muốn mạnh mẽ.

Là một cuốn sách mà người ta đã xóa chữ viết của lần đầu tiên đi để viết đè lên đó một văn bản khác.

Juliette dần nghiêng đầu về phía Brolin.

Tim cô nảy về phía trước.

Nhưng anh không còn ở đó nữa, anh đang ở trong một ngôi nhà hoang giữa rừng. Anh cảm thấy bị kích động bởi một cơn cuồng say nghiến ngấu, một nhu cầu trả thù không thể kiểm soát được. Nhu cầu thỏa mãn các ảo ảnh. Thế nhưng có những việc không thể làm như vậy. Anh phải biến đổi nạn nhân, nạn nhân không chỉ phục vụ các xung năng của anh, mà còn phải phục vụ nhiệm vụ mà anh sẽ thực hiện. Nạn nhân phải truyền tải thông điệp của anh. Rồi sau đó, anh giấu nó đi để mọi người không biết được trong tâm hồn anh có gì.

Nạn nhân là cuốn sách viết đè của hắn.

Brolin đứng bật dậy.

- Anh rất tiếc, Juliette. Anh... anh phải tới đó.

Cô gái sững sờ. Có phải vì tay họ chạm vào nhau nên anh muốn bỏ đi không? Không. Không thể ngớ ngẩn như thế được.

- Sao cơ? Em đã làm gì sao? Cuối cùng cô hỏi.

- Không phải tại em. Anh vừa mới hiểu ra tại sao Leland và hồn ma của hắn làm bỏng trán nạn nhân của chúng.

- Gì... làm thế nào... Tại sao chúng lại làm việc đó?

- Chúng tạo dấu ấn. Kẻ giết người viết lên đó những gì hắn muốn và đổ axít lên để che giấu dấu ấn.

Brolin đã ở ngoài phòng khách và khoác áo xong.

- Anh đi đâu vậy? Juliette hỏi, cô bối rối vì sự thay đổi đột ngột này.

- Đến nhà xác, tìm hiểu xem dấu ấn đó là gì.

Dấu ấn của hắn.

Một sơ xuất của hắn.
 

hoahongden12

Active Member

Chiếc Ford Mustang phi ầm ầm vào đường dành riêng cho xe cứu thương và xe tang. Brolin đỗ xe rồi đi tới cuối tòa nhà để đến phòng làm việc của bác sĩ Folstom. Hôm nay là thứ Bảy nên không có gì đảm bảo rằng Brolin sẽ tìm được bác sĩ pháp y trưởng ở đây, nhưng trực giác mách bảo anh tới không uổng công. Mọi thứ ở bà đều thể hiện lòng tận tụy tuyệt đối với nghề, vì thế anh sẽ không ngạc nhiên khi thấy bà dành một phần kỳ nghỉ cuối tuần ở phòng làm việc.

- Tôi có thể giúp gì được anh? Một phụ nữ mặc bộ đồ màu beaumout đang ngồi sau máy tính hỏi.

Brolin chìa thẻ.

- Tôi là thanh tra Brolin, tôi tìm bác sĩ Folstom, có chuyện rất quan trọng. Bà có biết bà ấy ở đâu không?

- Có, bà ấy đi ăn trưa ở nhà hàng Schiffo, ngay đối diện.

Brolin cảm ơn rồi biến mất. Vài phút sau, anh bước vào nhà hàng đó. Khá lịch sự, mặc dù rất đơn giản, với những chiếc khăn trải bàn bằng vải visi màu đỏ và trắng cùng những chai rượu vang rỗng phủ đầy sáp nến chảy xuống như nhựa cây đông đặc lại. Brolin nhận ngay ra Sydney Folstom đang ăn trưa cùng hai người đàn ông. Họ mặc complet bằng vải lanh, chắc chắn được may đo vì đường may rất hoàn hảo. Hẳn họ cũng là bác sĩ. Một bữa trưa dưới sự bảo trợ của Hypocrat, quá tuyệt!

Mùi thơm dịu của một món ăn nhiều gia vị kích thích các giác quan của Brolin.

- Bác sĩ Folstom.

Bác sĩ ngẩng mặt lên khỏi đĩa, vẻ mặt sầm lại khi nhận ra thanh tra Brolin.

- Anh thanh tra, bất ngờ quá! Anh theo tôi tới tận đây để đọc cho tôi nghe các quyền của tôi hay là anh tới hỏi về một cái xác mới vậy?

Brolin gật đầu chào hai người đàn ông.

- Rất khẩn cấp đấy, tin tôi đi, tôi sẽ không làm phiền chị giữa bữa ăn nếu không có việc khẩn cấp đâu. Cái xác được đưa đến chỗ chị chiều hôm qua ở đâu nhỉ?

- Cái xác nào? Bác sĩ đáp, vẻ mỉa mai.

Hai người ngồi cùng bà tán thưởng câu nói đùa mà họ cho là rất đúng chỗ này.

- Bác sĩ Folstom, chị biết rất rõ là tôi nói đến cái xác nào. Tôi muốn thấy nó và tôi cần năng lực chuyên môn của chị. Ngay bây giờ.

Từ cuối cùng được nhấn mạnh khiến các tràng cười im bặt.

- Anh không có chút tôn trọng nào với những cái dạ dày mỏng manh của chúng tôi sao?

Bà chỉ vào hai người đang ngồi cùng bàn ăn.

“Trái ngược với hình thức bề ngoài, đây là một cuộc họp chuyên môn. Và anh đang cắt ngang cuộc họp đó, anh thanh tra ạ. Cái xác của các anh đã được giải phẩu sáng nay, trước sự chứng kiến của thanh tra Pein. Chính tôi là người thực hiện và các kết luận của tôi đã được fax tới văn phòng của anh và gửi cả qua email. Tôi không còn gì để khai báo nữa, thưa thanh tra. Bây giờ, làm ơn để chúng tôi... “

- Thế còn vết bỏng trên trán, chị có thấy không?

- Cũng giống như những lần trước, các mô bị tổn thương nặng nề nên không thể nói được gì trừ việc đây là loại axít rất mạnh. Anh hãy đọc hồ sơ đi, tôi viết rất chi tiết.

- Nhưng không có dấu vết gì bên trong sao? Một dấu hiệu đặc biệt, ví dụ như một từ hay một hình vẽ.

- Anh thanh tra, anh có để yên cho tôi ăn nốt bữa trưa không?

Máu Brolin dồn lên mặt. Có những mạng sống đang gặp nguy hiểm!

- Thưa bác sĩ, chị hãy chọn một trong hai điều: hoặc là chị chấp nhận đưa tôi tới chỗ làm của chị và trả lời các câu hỏi của tôi, hoặc là tôi gọi chưởng lý Gleith, ông ấy sẽ rất thích được làm phiền để tới sắp xếp lại công việc của chị một chút đấy. Chị thích điều gì hơn?

Sydney Folstom hằm hằm nhìn anh.

- Thanh tra Brolin, anh là kẻ phá rối.

Rồi bà vơ lấy cái túi.

Thời tiết tháng Mười thật ẩm ương. Khi thì vừa mưa vừa gió, khi thì dễ chịu, bình lặng. Nhưng thứ Bảy hôm nay, trời chuyển âm u. Bầu trời toàn một màu xám xịt. Thỉnh thoảng, lác đác một cơn mưa nhỏ, không lâu hơn vài phút, và gió thổi rạp cây cối, càng về chiều càng mạnh. Từ phòng làm việc của bác sĩ Folstom, Brolin có thể nhìn thấy rìa công viên núi Tabor và ngọn núi lửa đã tắt của nó. Cây cối giống như những người muốn lên tới đỉnh trời đang cong người trong gió, như thể được mẹ Thiên nhiên nhắc nhở phải hạ mình hơn.

- Nào, điều gì khiến anh lo lắng vậy, anh thanh tra?

Sydney Folstom vừa ngồi xuống chiếc ghế bành rộng bằng da vừa hỏi.

- Tôi muốn biết...

- Anh muốn biết. Anh cắt ngang bữa trưa của tôi và gần như ép tôi tới đây, tôi nghĩ là anh có thể bỏ qua những lời lẽ khách sáo.

Brolin gật đầu đồng tình mặc dù anh thấy nhận xét đó không cần thiết. Chuyện nhỏ mà.

- Tôi muốn biết liệu có tìm lại được dấu ấn mà kẻ giết người đã viết gì đó lên trán nạn nhân, một từ hoặc gì đó tương tự. Sau khi giết nạn nhân, hắn dùng axít xóa đi để không ai đọc được nữa.

- Chúng tôi không tìm thấy gì trên da cả. Phần thịt bị ăn mòn và cháy hết. Tuy nhiên, nếu hắn cần axít để xóa, thì tức là hắn không viết dấu ấn của mình. Nếu hắn dùng bút dạ, sơn hay thứ gì đó tương tự, thì hắn có thể xóa dễ dàng không cần dùng đến axít. Vì hắn giết người bằng dao, nên có thể giả thuyết rằng hắn khắc dấu ấn của hắn vào thịt nạn nhân. Điều này cũng lý giải cho độ sâu của vết bỏng.

- Và chị cho rằng không thể đọc được gì nữa ư?

- Không hẳn. Nếu hắn khỏe, mũi dao của hắn có thể khắc vào tận xương sọ. Khi ấy, ta có thể tìm thấy gì đó.

Ánh mắt bà dịu xuống. Bà lấy ra một viên kẹo bạc hà mời Brolin.

- Mặt mũi anh khiếp quá, anh thanh tra ạ, bộ mặt của người ngủ không ngon giấc.

Brolin chỉ nhìn bà mà không trả lời.

- Nếu rất khẩn cấp, thì chúng ta đi xuống xem xét cái đầu đó thôi, bà nói rồi đứng dậy.

- Tôi từng rất mong được nghe chị nói điều này.

- Cảnh sát thường chạy luôn khi nghe tôi nói thế...

Họ cùng đi xuống tầng hầm.

Với sự giúp đỡ của một nhân viên nhà xác, một trong những “chuyên gia về xác chết” như Brolin thường gọi, họ đưa Elizabeth Stinger ra khỏi ngăn lạnh. Một sợi dây to màu đen được buộc vào nửa người trên của cô nom như một con giun dài thò ra rồi lại chui vào trong da. Một sợi dây khác màu sáng hơn giữ lấy mảng da đầu và bị tóc che đi một phần.

“Cô ấy hẳn khá xinh”, Brolin nghĩ thế khi quan sát khuôn mặt nhợt nhạt của cái xác. Sau khi giải phẫu, máu đã ra hết khỏi cơ thể, để lại một phần dịch trắng như sữa quanh lớp biểu bì.

Sydney Folstom đẩy chiếc xe kim loại đến một phòng phẫu tích, tay bà cầm con dao mổ dài.

- Chị sẽ làm gì? Brolin hỏi khi thấy lưỡi dao lấp loáng dưới ánh đèn không gây bóng.

- Cắt đầu.

- Gì cơ... làm thế ư?

Bác sĩ đáp, giọng càng trầm hơn:

- Anh yêu cầu tôi nghiên cứu kỹ. Anh tưởng tôi sẽ làm thế nào? Tia X và máy scan đều không thể phát hiện được vết dao trên xương nếu vết khắc chỉ hơi sâu. Dù sao thì gia đình cũng đã được thông báo là không được nhìn cái xác vì cái xác bị tổn thương quá nặng, bắt đầu từ trán.

Mặc dù đã quá quen với các cuộc giải phẫu tử thi và những cảnh tượng rùng rợn khác, Brolin vẫn cảm thấy các cơ chân của mình nhũn ra.

- Vậy chị sẽ làm thế nào?

- Anh đã nhấn mạnh tính khẩn cấp, vì thế tôi chọn phương pháp man rợ nhất, nhưng nhanh nhất.

Brolin khó nhọc nuốt nước miếng. Những hình ảnh tệ hại nhất hiện ra chồng chéo lên nhau, anh tưởng tượng ra cảnh bác sỹ pháp y dùng một con dao dài lột da mặt một cách dễ dàng, giống như gọt vỏ một quả cam chín.

- Tôi sẽ luộc cái đầu, cùng lắm sau một tiếng rưỡi là thịt róc ra. Tôi sẽ đổ hết nước luộc đi để lấy ra cái sọ hoàn toàn sạch sẽ và không bị xây xát.

Cho dù vô cùng tàn bạo nhưng đây chính là cách làm của Sydney Folstom, người từng tốt nghiệp đại học UCLA, thành viên của học viện khoa học Pháp y uy tính và chuyên gia giải phẫu bệnh học nổi tiếng.

Trời đã xế chiều. Cửa tầng hầm mở ra mỗi khi xe chở xác đi qua. Không có bất cứ cửa sổ nào ở nơi thấp như thế, dưới này là thế giới của bóng tối, nơi kín đáo để người ta mở xác đàn ông, phụ nữ, trẻ con giống như gọt một loại quả. Ở đây, không có ai vô cảm hết, nhưng tất cả những người làm việc trong thế giới này sẽ nói với bạn rằng rốt cuộc, vẫn phải chịu đựng thôi. Khắp nơi là xác người, một số xác rỗng không, thịt nằm ngoài da lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời. Những con người bị lột da, moi ruột. Những đống phủ tạng nhỏ nằm rải rác trên các bàn phẫu tích, tiếng vòi nước chảy và tiếng quạt thông gió công suất lớn không át được tiếng cưa ken két bi thảm xẻ hộp sọ.

Brolin ngạt thở.

Anh đã quen với các cuộc giải phẫu tử thi nhưng không thích cách thực hành. Khi nồi nước sôi luộc đầu Elizabeth Stinger bắt đầu tỏa ra mùi thịt, anh lấy cớ ra ngoài hút thuốc. Bác sỹ không biết là anh đã bỏ thuốc. Anh tìm cầu thang gần nhất và vô tình đẩy cánh cửa phòng “Hình ghép”.

“Hình ghép” là một phòng rộng tối om nằm tách biệt ở tầng hầm của Viện Pháp y, các nhân viên của Viện thường tránh đi qua đây. Căn phòng rất hiếm khi được sử dụng – quả là may mắn – và phần lớn thời gian bị bụi phủ đầy. Ở đây luôn lạnh hơn một chút so với các phòng khác cùng tầng hầm. Căn phòng này được trang bị nhiều bàn to bằng inox để tiếp nhận nhiều xác chết cùng một lúc trong trường hợp xảy ra thảm họa lớn, khi không còn đủ ngăn lạnh. Cái tên “Hình ghép” được đặt từ khi xảy ra một vụ nổ máy bay cách Portland vài kilômét. Xác chết chất đống ở đó bị nát vụn thành hàng chục mảnh, người ta phải mất rất nhiều thời gian trong căn phòng lạnh lẽo này để đặt các chi cạnh nhau, bắt đầu bằng việc phân thành từng loại, rồi dần dần khôi phục hình ghép xác người khổng lồ đó.

Brolin đã từng nghe nói về nơi này nên tinh thần càng thêm bất ổn. Dù không muốn, anh vẫn quay lại chỗ bác sỹ Folstom.

Bác sỹ đã thực hiện nhiều thao tác trên hộp sọ. Thịt đã róc ra hoàn toàn, không còn lại tí nào, xương lấp loáng hơi nước và nhẵn bóng.

Hiện tại, Sydney Folstom đang quét phần ụ trán bằng một chùm ánh sáng cực mạnh chiếu nghiêng, bà đeo một chiếc kính lúp ở một bên mắt, sau vài phút khám nghiệm, bà ra hiệu cho Brolin lại gần.

- Anh hãy nhìn phần trán, đúng là có vết hư tổn, có thể do đầu nhọn của một vật sắc gây nên. Vật này hoàn toàn có thể cùng loại với con dao hai lưỡi được dùng để giết nạn nhân thứ nhất. Chúng ta đang đối mặt với một kẻ thích dùng dao hai lưỡi, có thể nói như vậy.

Brolin cúi xuống để nhìn qua kính lúp. Dấu vết không rõ lắm, có lẽ chỉ dành cho con mắt nghiệp vụ của chuyên gia.

- Đợi một lát, chúng ta sẽ làm nó nổi lên một chút.

Bà quét một bàn chải bằng sợi thủy tinh trên cái sọ và một lớp mỏng bột carbon rơi vào các rãnh nhỏ xíu. Ánh sáng chói gay gắt chiếu vào vết khắc đã chuyển thành màu đen làm nổi lên hình một biểu tượng kỳ quặc trên xương.

- Đây là hình gì? Brolin hỏi.

- Anh là cảnh sát cơ mà, chính anh phải nói với tôi điều đó mới đúng.

- Có lẽ... một dạng... sao năm cánh thì phải. Có thể vẽ lại nó được không?

- Còn hơn thế nữa, tôi có thể chụp ảnh kỹ thuật số cực nét và chúng ta sẽ phóng to ảnh lên.

- Bác sỹ, nếu tôi đã phá rối chị, thì điều này sẽ không xảy ra nữa đâu, Brolin nói, vẻ mặt đầy thỏa mãn.

Bác sỹ đứng dậy để lấy máy ảnh kỹ thuật số.

- Được như thế thì đã tốt.

Tiếng đèn flash vang lên lách tách trong không khí bão hòa của tầng hầm.
 

hoahongden12

Active Member

- Vâng, mẹ ạ, không khó khăn lắm, học kỳ mới chỉ bắt đầu chưa lâu lắm mà.

Julliette đổi tư thế, mười lăm phút nói chuyện điện thoại với mẹ khiến cô bị tê chân.

- Thế còn chuyện khủng khiếp về tên giết người ở Portland? Có tin gì mới không? Bà Lafatyette hỏi.

- Tối hôm qua, cảnh sát thông báo là sẽ tóm được hắn trong vài ngày tới. Họ có vẻ tự tin lắm.

- Mẹ với bố nghĩ là nên về Portland vài hôm. Không thể để con một mình trong lúc này.

- Mẹ ơi, ba tháng vừa rồi con ở một mình mà có sao đâu. Với lại con không đến nỗi đơn độc như thế, con còn có chị Camelia.

- Nếu bố mẹ ở bên cạnh con thì khác nhiều chứ. Bố mẹ có thể chăm sóc con, làm ngôi nhà ấm áp hơn...

- Thôi, không nói chuyện ấy nữa! Juliette nói bằng giọng cương quyết nhưng đầy trìu mến. Con biết bố đang có một hợp đồng rất lớn, bố cần mẹ trong lúc này và...

- Nhưng con cũng cần, mà bố có thể...

- Thôi mà, mẹ. Con rất ổn. Mẹ biết đấy, con có thể tự giải quyết mọi việc, rồi sẽ tốt thôi. Con đã lớn rồi.

- Ừ, mẹ biết. Nhưng nếu không nhìn thấy con, mẹ vẫn cứ lo lo. Ít nhất thì con cũng có đi chơi cùng bạn bè đấy chứ?

Juliette thấy bực mình với kiểu câu hỏi này, nhất là khi đó là câu hỏi của mẹ, vì mẹ là người hiểu cô hơn ai hết. Mẹ đã nghe cô nói về Camelia và chỉ chê trách một điều rằng với con gái bà, Camelia là một người bạn quá bi quan về tình yêu do đã ly hôn. Đôi khi, Julette định tâm sự với bà rằng chính cô là người phải kìm nén những đam mê của Camelia, nhưng đây lại là loại chi tiết nhỏ thường không thể nói được giữa mẹ và con gái. ít nhất là không phải trong tất cả các gia đình.

- Có ạ, thỉnh thoảng, cô nói dối.

- Mẹ không thích khi con ở nhà một mình, trong khi kẻ điên cuồng đó đang lang thang khắp thành phố, mẹ nghĩ đúng là bố mẹ phải về thăm con vài ngày.

Không còn gì để nói, Juliette rất yêu bố mẹ, nhưng cô không thích thứ tình cảm che chở này, sự bao bọc của mẹ còn khiến cô ngạt thở hơn nữa vì nó không để cho cô khoảng lùi cần thiết để đương đầu với một tình thế.

- Mẹ ơi, không cần đâu. Bố mẹ còn nhiều việc phải làm ở California và con sẽ đến đó vào dịp lễ Tạ ơn. Sau đó, nhà mình sẽ bên nhau mười ngày trong dịp lễ tết cuối năm ở nhà chú Flenagan. Con đảm bảo là mọi việc đều tốt đẹp.

Cô định nói với mẹ rằng dù sao cô cũng đang được cảnh sát bảo vệ nhưng lại sợ điều này sẽ làm mẹ cô càng thêm lo lắng.

- Thôi được. Khi nào con thấy cần thì gọi điện cho mẹ ngay nhé, mẹ có thể có mặt sau vài giờ đồng hồ. Mẹ nghĩ con nên gọi cho thanh tra Brolin, có lẽ cậu ấy cũng vui khi có tin tức của con. Mẹ không thể hiểu nổi tại sao con và cậu ấy lại không liên lạc với nhau.

- Cuộc sống... là thế mà. Nhưng mẹ có thể yên tâm được rồi, gần đây con có gặp anh ấy.

- Thật không? Mẹ rất vui, đó là một chàng trai tốt.

Juliette biết mẹ cô luôn quý mến Joshua Brolin. Chắc chắn có lý do là vì anh đã cứu sống con gái bà, nhưng còn có một nguyên nhân khác, có lẽ là sự đồng cảm tinh thần. Khoảng cách chênh lệch tám tuổi dường như không khiến bà quá bận tâm, thậm chí Juliette còn từng nghĩ rằng đến một lúc nào đó, bà sẽ muốn gả con gái mình cho anh thanh tra. Rõ buồn cười! Báo chí sẽ tha hồ vớ bở: "Nạn nhân của kẻ giết người hàng loạt cưới ân nhân cứu mạng"!

- Này con, việc đó không liên quan gì tới những vụ giết người gần đây đấy chứ? bà Aliec Lafayette hỏi.

- Không, chỉ gặp nhau... thế thôi.

- Ôi, đừng nói với mẹ là "thế thôi", không bao giờ có chuyện gặp nhau "thế thôi" như vậy cả. Có chuyện gì thế? Con thích cậu ấy không?

- Mẹ, có phải việc của mẹ đâu!

- Mẹ không nói gì cả, mẹ vui vì biết tin tức của con.

- Vâng... Con thôi đây, con phải làm việc một chút.

- Juliette, bây giờ là tối thứ bảy cơ mà, con nên đi chơi với bạn bè vào tối thứ bảy....

- Con sẽ suy nghĩ về chuyện đó.

Hai mẹ con chia tay sau những chuyện vui bất tận giữa mẹ và con gái về "người đàn ông trong gia đình", ông Ted Lafayette.

Juliette lên tầng đi tắm, đây là sở thích buổi tối của cô. Khi cái lạnh bắt đầu bao phủ khắp vùng, cô thích nằm dài trong bồn tắm không nước và cảm nhận làn nước nóng dâng lên chầm chậm làm ấm người. Cô dốc hết chai nước tắm tạo bọt vào bồn, trút bỏ áo và quần bò xuống sàn. Trong khi bỏ quần áo bẩn vào giỏ, cô nghĩ đến chuyện cho máy giặt quay ngay sau khi kết thúc khoảng thời gian thư giãn trong nước.

Rồi cô thả mình vào bồn tắm và nhắm mắt lại, nước nóng bao quanh cô khiến đôi chân tê cứng của cô dần tìm lại được cảm giác.

Tiếng chuông điện thoại từ xa vọng lại.

"Ôi! Khỉ thật..."

Có thể có chuyện quan trọng. Hoặc chỉ là mẹ cô lại quên mất một chi tiết nào đó. Tiếng chuông vẫn reo không ngớt. Sau chút lưỡng lự, Juliette quấn khăn vào người rồi chạy tới đầu kia hành lang để nghe máy.

- Juliette phải không? Anh, Joshua đây.

- A! Em xin lỗi vì mãi mới nhấc máy...!

Ngốc quá! Sao không nói với anh ấy chuyện thời tiết luôn đi!

Cô không nghĩ ra gì khác để đáp lại ngay lập tức.

- Này, anh cần em giúp đỡ. Hay đúng hơn là cần bạn em giúp đỡ.

- Anh cứ nói đi.

- Người sưu tập sách thần bí mà em kể với anh ấy mà, em có nghĩ là anh ta đồng ý dành thời gian tiếp anh không?

- Tức là... em nghĩ là có. Anh muốn làm gì?

- Anh đưa anh ta xem một biểu tượng, dường như là một hình vẽ bí ẩn, và anh muốn anh ta cho biết ý nghĩa của hình vẽ đó.

- Để phục vụ cuộc điều tra ư?

Brolin xác nhận.

Quá vui mừng vì có thể trở nên có ích, Juliette không nhắc tới sợi dây tình cảm mỏng manh và mới mẻ giữa cô và Anthony Desaux.

- Đợi em mặc đồ xong, em sẽ gọi anh ta.

- Có lẽ anh đang làm phiền em... anh nói, giọng bối rối.

- Không, sao lại thế? À vâng, thực ra em đang tắm. Thế này nhé, em gọi điện cho anh ta rồi anh đến đón em trong vòng một tiếng nữa nhé.

Một chút ngập ngừng ở đầu dây bên kia.

- Anh không định làm mất thời gian của em, Juliette ạ, việc này nằm trong khuôn khổ cuộc điều tra, tốt hơn hết anh nên tới đó một mình.

- Anthony Desaux là một người hơi đặc biệt, anh ta thích em có mặt ở đó hơn. Hơn nữa, thư viện của anh ta rộng mênh mông, mà em lại đã có chút kinh nghiệm, em có thể giúp anh đỡ tốn thời gian trong trường hợp...

Brolin nhanh chóng nhượng bộ. Dù sao cũng chẳng có rủi ro nào cả, và Juliette sẽ là một cô bạn gái duyên dáng khiến buổi tối của anh vui vẻ hơn, buổi tối mà anh dự đoán là rất buồn tẻ khi phải nghe một ông già ba hoa về kiến thức của mình.

Cuộc hẹn được sắp đặt lúc hai mươi giờ.

***

Khi dừng xe trước cửa nhà Juliette, Brolin chạy nhanh tới xe của các đồng nghiệp đang canh gác để báo với họ rằng anh sẽ đi cùng cô trong vài giờ. Việc đó chỉ mất hai phút thôi, nhưng trời mưa to đến nỗi anh ướt sũng khi trở lại xe của mình, nước mưa chảy cả trong lưng anh.

Juliette chạy từ thềm nhà vào xe với anh.

- Thời tiết chán quá! Cô thốt lên. Còn tồi tệ hơn mùa mưa ở Thái Lan.

- Anh nghe nói đó là một đất nước đẹp. Em đã đi Thái Lan rồi sao?

- Chưa, cô ngượng nghịu thừa nhận. Anthony Desaux rất tiếc vì không thể có mặt ở nhà tối nay. Anh ta có một bữa tối quan trọng với các thành viên ban lãnh đạo của một trong các công ty của mình.

Đang định khởi động xe, Brolin chợt ngừng lại.

- Nhưng Paul, người quản gia, đang đợi chúng ta, Juliette nói tiếp. Chúng ta có thể tha hồ tìm kiếm trong thư viện. Dù sao anh ta cũng đã nói với em là anh ta không biết nhiều lắm về các hình vẽ bí ẩn, nhưng anh ta hứa sẽ giới thiệu vài cuốn sách về chủ đề này.

- Ừ, anh cũng đoán là như thế.

- Và em đã chuẩn bị sanhwich cho chúng ta.

Cần gạt nước quét trên kính trước, làm những giọt nước mưa tan thành một lớp màn đục.

- Không có em thì anh làm được gì cơ chứ?

Juliette nhún vai. Cô có một ý nghĩ nhưng không dám chia sẻ với anh...

Điền trang nhà Desaux phô cái bóng sừng sững kiểu gothic của nó ra dưới cơn mưa tầm tã như một điềm gở. Chớp giật từng hồi trong khu vườn đầy cây cối, soi sáng bức tường mưa màu xám phủ quanh toàn bộ điền trang và xa hơn nữa. Mọi thứ đều đen kịt và mù mịt, rồi một giây sau hiện ra tấm màn chắn bằng nước tối đen và dày như một đám mây tro.

Paul - một người đàn ông tráng kiện trạc bốn mươi tuổi trong trang phục không chê vào đâu được - đang cầm ô đứng đợi " khách mời của ông chủ", nhưng cũng không giúp được hai người khỏi ướt lướt thướt khi bước vào sảnh.

Họ được đưa vào khu nhà tròn rộng rãi, nơi đặt thư viện. Khi Paul đẩy cánh cửa, Juliette lại một lần nữa sững sờ vì không khí huyền bí của nơi này. Những kệ sách dài đã được chiếu sáng để đợi họ tới, nhưng cơn giông, với tiếng gió thổi mạnh, tiếng mưa đập vào cửa sổ và cả các tia chớp, khiến khung cảnh trở nên siêu nhiên hơn lần đầu tiên Juliette tới đây. Cô ngẩng đầu lên, hy vọng nhìn được rõ hơn bức tranh vẽ trên trần nhà, nhưng cũng không đoán được gì hơn.

- Ông Desaux đã lấy sẵn cho anh chị mấy cuốn sách để tham khảo trên chiếc bàn làm việc lớn, người quản gia nói.

"Mấy" cuốn sách thực ra là khoảng ba chục cuốn sách cổ khá dày đặt cạnh chiếc đèn có chụp màu xanh.

- Nếu anh chị cần bất cứ thứ gì, hãy tìm tôi trong bếp, ở cuối hành lang.

Người quản gia gật đầu chào rồi lặng lẽ biến mất.

Juliette ngắm nhìn chồng sách cổ. Chắc chắn chúng được lấy ra từ bộ sưu tập của chủ nhà, từ Địa ngục của riêng anh ta. Paul không nói gì đến căn phòng bí mật. Juliette tự hỏi liệu có phải đây là cách để làm cho cô hiểu rằng anh ta muốn cô kín mồm kín miệng một chút không. Hoàn toàn có khả năng Anthony Desaux không muốn tất cả mọi người biết về các bí mật của anh ta, nhất là một thanh tra của Phòng điều tra tội phạm.

- Chúng ta bắt đầu từ đâu? Brolin hỏi, thoáng chút nản lòng trong giọng nói. Em có nhiều kinh nghiệm tìm kiếm trong thư viện, đúng không?

- Bắt đầu từ phần mục lục, chỉ dẫn, chúng ta kiểm tra tất cả những gì có thể liên quan đến các hình vẽ hoặc biểu tượng thần bí. Thực ra trông hình đó như thế nào nhỉ?

Brolin chìa bức ảnh kỹ thuật số phóng to. Trên bản in laser trong tay anh, chỉ thấy rõ trán và phần trên mắt, hay hốc trên mắt theo lời bác sĩ Folstom. Ở giữa hiện lên một đường đen rất mảnh của hình vẽ bí ẩn. Một kiểu ngôi sao năm cánh.

- Kỳ lạ thật... có thể nói đó là một ngôi sao của quỷ Satan hay thứ gì đại loại như thế, Juliette nhận xét. Anh tìm thấy hình này ở đâu?

- À... trên trán của một nạn nhân.

Anh không muốn nói dối cô.

- Trán ư? Cứ như là... Trời ơi!

Cô đưa tay lên miệng như để ngăn mình thở. Cô xua khỏi đầu những hình ảnh ghê tởm đang lần luợt hiện ra.

- Ta bắt đầu chứ? Chúng ta chỉ có một phần của buổi tối thôi, vì thế không nên để mất thời gian.

Brolin đồng tình, anh thích sự hào hứng toát ra từ cô, tính năng động thường trực trong cô ngay cả vào những thời điểm tồi tệ nhất.
 

hoahongden12

Active Member

Giữa đống máy móc điện tử trong phòng thí nghiệm của cảnh sát khoa học Portland, Craig Nova đang cần mẫn làm việc. Anh đã được tin về thất bại thảm hại của "Kỹ thuật tiên phong hành động" nổi tiếng của Brolin, điều này làm anh rất buồn. Không phải vì kẻ giết người vẫn đang nhởn nhơ, mà vì Brolin sẽ suy sụp vì thất bại ấy. Cái bẫy đã phát huy tác dụng dù nhiều người không tin, kẻ giết người đã cắn câu. Đúng như đại úy Chamberlin đã nói với Brolin, đây không phải là thất bại của riêng cá nhân anh, mà là thất bại của cả nhóm đặc nhiệm. Tuy nhiên, không ai ngớ ngẩn cả. Cần phải nhanh chóng giải trình với báo chí, với ngài thị trưởng, với chưởng lý, và nếu cần một người chịu trận, thì Brolin sẽ bị thiêu cháy dưới ánh mắt thù hằn của công luận mà sức mua và nhất là quyền bầu cử của họ rất đáng để hy sinh sự nghiệp của vài con người. Ít nhất, đây là ý kiến của những người làm nên thế giới, bắt đầu từ cơ quan hành pháp của Portland.

Một trăm con người được huy động cùng với rất nhiều thiết bị, thế mà Hồn ma Leland vẫn bốc hơi ngay trước mắt họ. Tất cả chỉ có thể là một vực thẳm không đáy, một thất bại thảm hại nếu cảnh sát không thu đuợc từ đó một thông tin dù là nhỏ nhất về kẻ giết người. Và hướng điều tra đó hiện đang nằm trong tay Craig Nova.

Craig chỉnh lại chiếc áo blouse trắng và nhấc lên cái túi nhựa mà vài phút trước còn chứa đựng manh mối mới nhất mà họ có được. Anh thấy thật lạ lùng khi tự nhủ rằng toàn bộ cuộc sống của một con người lại có thể phụ thuộc vào thứ đựng trong một chiếc túi nhựa rất bình thường.

Đầu mẩu thuốc lá mà Hồn ma Leland vứt lại ở bãi đỗ xe có thể giúp họ tìm ra hắn. Brolin từng giải thích rằng căn cứ vào tình trạng chưa trưởng thành về mặt tình dục và cách ra tay man rợ có mục tiêu nhưng không có hành động cưỡng hiếp của kẻ giết người, có thể thấy rằng kẻ đó có một quá khứ tội phạm nặng nề. Hẳn là hắn đã từng bị kết án vì vi phạm thuần phong mỹ tục, phô dâm hay thậm chí mưu toan hiếp dâm. Tức là mẫu ADN của hắn hoàn toàn có thể được lưu trong ngân hàng dữ liệu về các tội phạm tình dục.

Các phân tử axit desoxyribonucleic (ADN) có trong tất cả các tế bào của con người và là một chuỗi thông tin được mã hóa. Chỉ cần có chân tóc, một giọt máu, nước bọt hay tinh dịch, là người ta có thể tìm đến tận từng tế bào và lấy ra từ đó mã hình thành ADN. Mã này là duy nhất đối với mỗi cá nhân và nó quy định cá nhân đó là người thế nào, giống như một cuốn sổ sinh học, quy định màu tóc, màu mắt, cả vóc người và khổ vai... Về phương diện nào đó, đây là chứng minh thư tự nhiên của chúng ta, một chuỗi mã nucleotid rất dài.

Craig chỉ còn phải rút ra ADN chứa đựng trong các tế bào biểu mô và bạch cầu có trong nước bọt dính trên đầu mẩu thuốc lá, và mọi chuyện sẽ rõ.

Lượng nước bọt rất ít, Craig phải dùng đến phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction: Phản ứng nhân gien) để khuếch đại các chuỗi riêng biệt. Vấn đề của hệ thống này là nó nhân lên tất cả, kể cả một chất lạ có thể có, nếu chuỗi ADN được nghiên cứu bị nhiễm tạp chất từ một nguồn bên ngoài, thì kết quả sẽ bị sai lệch, vì lý do đó, nhất thiết phải làm việc trong môi trường kín, đeo khẩu trang, găng tay và mặc áo blouse. Phương pháp PCR cho phép làm việc với những khối lượng cực nhỏ, nó có thể hoạt động chỉ với một phần tỉ gam ADN.

Khi giảng cho các sĩ quan cảnh sát những kiến thức sơ đẳng về các phương pháp có thể sử dụng, Craig Nova có thói quen giải thích một tỉ biểu thị cái gì, con số dựa vào kinh nghiệm này chẳng có chút ý nghĩa nào đối với chúng ta ngoài khái niệm là một con số rất lớn. Anh hỏi học viên của mình rằng theo họ, một người phải mất bao lâu để đếm tới con số một tỉ.

Các câu trả lời thường thể hiện khái niệm ít ỏi mà chúng ta biết về con số với chín số không. Họ trả lời: từ hai ngày đến sáu tháng. Đôi khi một năm.

Rất hiếm khi có người đưa ra câu trả lời đúng, câu trả lời gây choáng. Để đếm đến một tỉ, người ta phải mất tới ba mươi ba năm, tức gần nửa đời người. Thông thường Craig trở lại với phần giảng giải về PCR và về khả năng vận hành của nó với một phần tỉ gam, và tất cả mọi người đều ngỡ ngàng, thán phục, trong khi trước đó mười phút, họ hoàn toàn dửng dưng. Có vẻ như bọn tội phạm không có cơ may nào thoát tội.

Chuyên gia về các chi tiết ấy đã cho máy chạy trong ba giờ liền, cho tới khi lượng DNA được nhân lên gấp một triệu lần. Tiếp đó, anh xử lý DNA bằng điện chuyển nhờ gel polyacrylamid để làm hiện ra số lần lặp lại của một chuỗi cơ bản trong mỗi phần của mẫu phẩm. Có hàng trăm chuỗi cơ bản trong mỗi phần của mẫu phẩm. Có hàng trăm chuỗi ngắn này và mỗi chuỗi có đặc điểm riêng. Chỉ cần kiểm tra nhiều chuỗi khác nhau (thường khoảng mười, mười hai chuỗi có kết quả chắc chắn) là có thể yên tâm về tính duy nhất của kết quả, và bằng chuỗi này, có thể xác định được đối tượng đang tìm kiếm.

Những tiếng bíp liên tục vang lên quanh nhà khoa học trong căn phòng chìm trong làn ánh sáng đỏ, màu xanh lam của máy móc khiến bầu không khí trong phòng dịu bớt đi.

Còn vài giờ xử lý nữa thôi là các dữ liệu sẽ chuyển thành dãy số, tất cả khoảng sáu mươi dãy. Mã số này sau đó sẽ được nhập vào máy vi tính và bắt đầu cuộc tìm kiếm dài bằng kỹ thuật tin học. Nếu ở đâu đó trên lãnh thổ Mỹ đã có một người bị lưu mã gien vào hồ sơ tội phạm, thì câu trả lời nhất định sẽ hiện ra.

Craig bấm một nút đỏ và tiếng ro ro của hệ thống thông gió lại nổi lên.

Việc xác định được đối tượng có lẽ chỉ là vấn đề thời gian.
 

hoahongden12

Active Member

Cơn giông gầm gào như một con mèo hoang khổng lồ. Đêm đã khuya, ánh sáng khá dịu của thư viện không giúp Brolin giữ được đầu óc tỉnh táo. Nhiều lần, anh đọc lẫn lộn dòng, sau đó mới nhận ra rằng mí mắt mình đang trĩu xuống giống như tấm rèm của một cửa hàng được đóng lại. Juliette được kích động bởi lòng nhiệt tình sinh viên, lòng nhiệt tình vốn thường vẫn xâm chiếm những nhà nghiên cứu khi họ cảm thấy các tập hợp dần dần liên kết lại với nhau trong những lúc nhập dữ liệu thông tin. Cho đến giờ cô chưa tìm thấy gì cả, nhưng niềm hăng say của một con mọt sách đã xâm chiếm thân thể và trí óc cô. Các ngón tay khéo léo của cô lần lượt giở hết trang này đến trang khác. Mắt cô nuốt ngấu nghiến các từ như người ta uống cạn một cốc nước sau buổi lao động mệt nhọc.

Đồng hồ ngoài sảnh điểm một giờ sáng.

Brolin duỗi người trên ghế bành, tiếng các khớp xương kêu răng rắc vang lên trong khu nhà tròn rộng mênh mông.

- Thế nào? Em tìm được gì không? Anh hỏi và cố nén cái ngáp dài.

- HIện giờ thì chưa, Juliette miễn cưỡng đáp. Nhưng em không tin là câu trả lời không nằm ở một trong những cuốn sách cổ này. Trước mặt chúng ta là những cuốn sách nằm trong số những cuốn đầy đủ nhất, tất cả các kiến thức cơ bản về phép thuật đều có ở đây. Họa tiết bí ẩn mà hắn vẽ nhất định phải nằm đâu đó trong này, em tin chắc như thế.

- Đó chính là điều khiến anh sợ. Anh có thể nhầm, có thể kẻ giết người chỉ nguệch ngoạc một hình bất kỳ mà hắn nghĩ ra.

- Em không rõ lắm, nhưng biểu tượng mà hắn khắc không giống với hình ảnh hoang tưởng của một kẻ bệnh hoạn. Có thể nói đây là một thứ gì đó đã được nghiên cứu kỹ, được vẽ rất cẩn thận và nhằm một mục đích cụ thể.

- Sợ thật! Brolin thốt lên. Đúng là thê thảm. Anh gập cuốn sách cũ trước mặt lại, khiến một đám bụi bốc lên.

- Anh cần phải đi lại một chút. Không biết em thế nào, nhưng anh nghĩ mình không kiên nhẫn được nữa khi ngồi miệt mài nghiên cứu đống sách này mà không ngẩng đầu lên trong suốt hơn bốn giờ đồng hồ.

- Bệnh của trường đại học ấy mà. Nhưng anh nói có lý, cần phải giải lao để giữ đuợc đầu óc sáng suốt.

Brolin đứng dậy đi đi lại lại, hai tay đút túi, mắt ngắm nhìn những pho tượng đặt ở đầu các kệ sách. Juliette nhìn anh, cô bất ngờ khi nhận thấy mình ngắm dáng hình anh một cách thích thú. Cô đi tới chỗ anh.

- Anh có tin vào truyện cổ tích không? Cô hỏi.

- Anh không đọc chúng từ... Đúng là từ nhiều năm rồi!

- Anh hãy đứng ở đây, đừng động đậy.

Cô đi về phía cái hõm nằm sâu trong bóng tối. Ở đó, cô mò mẫm tìm cái chốt mà Anthony Desaux đã mở trước mặt cô, rồi ấn chốt. Giống như ông chủ nhà đã làm hôm qua, cô cũng biến mất trong tường.

Brolin thấy trò này quả là buồn cười, nhưng anh thôi cười ngay khi cô đưa anh vào căn phòng được chiếu sáng bằng một ngọn đèn nhỏ, mạng nhện, rồi chiếc ghế tra tấn khiến anh cảm thấy lo sợ. Và sự tôn kính cùng mối nghi ngờ toát ra từ những cuốn sách cổ khiến anh bỗng trrởnên thán phục đối với những nơi như thế này.

- Nơi nào thế này! Phải điên rồ mới có nơi này ở nhà! Brolin ngỡ ngàng.

- Còn em thấy ở đây khá hấp dẫn, có sự pha trộn giữa học thức uyên bác và sự huyền bí.

Cô bước dọc theo các giá sách cao ngất khép lại tầng Địa ngục. Đầu óc lơ lửng trên mây, cô không nhìn thấy cái chân ghế tra tấn hình móng sư tử nên bị vấp vào nó. Cô mất thăng bằng, Brolin đang đứng gần đó vội chạy tới giữ cô.

Cô ngã vào vòng tay anh.

Anh định hỏi cô có sao không thì cặp mắt màu saphire của cô chạm vào mắt anh. Tim anh đập nhanh.

Khi cô ngã, anh kéo lấy tay cô để giữ cô lại, và giờ đây anh nhận ra mình vẫn chưa bỏ tay cô ra. Nửa người cô ngả vào anh, và màu hồng của đôi môi mọng hút lấy anh như thể anh là một viên bi sắt bị hút vào nam châm.

Anh không biết phải làm gì. Mọi thứ trong anh đều ra lệnh cho anh không được suy nghĩ, phải lắng nghe trái tim và cơ thể, nhưng anh sợ. Vâng, sợ. Sợ cô không thực sự thích anh, mà đây chỉ là hậu quả của chấn thương do vụ bắt cóc để lại. Trí óc cô có thể coi anh như một vị cứu tinh, một người che chở mà cô là kẻ mang ơn, không có người đó cô cảm thấy hoảng sợ trong thế giới này. Tóm lại, cô không muốn anh như muốn một người yêu, một người bạn tâm tình, nhưng vô thức ra lệnh cho cô níu vào người che chở đó. Và nếu mối quan hệ của họ có kéo dài được, thì đó cũng không bao giờ là tình yêu, mà chỉ là một sự gắn bó nửa vời.

- Em biết anh đang nghĩ gì, cô thì thầm.

Tay cô siết chặt hơn.

- Anh không biết liệu có phải... Anh nói, nhưng Juliette đặt ngón tay lên miệng anh.

Cô ghé mặt vào gần mặt anh, và khi khoảng cách giữa họ chỉ còn vài centimet, Brolin hoàn tất nốt phần còn lại. Đôi môi nóng ấm của họ thoáng vuốt ve nhau rồi hé mở. Nụ hôn thật chậm, lưỡi của hai người khám phá nhau một cách dịu dàng, rồi dần dần, ham muốn khiến họ quấn lấy nhau trong căn phòng bụi bặm, cho tới khi tay người này đặt trên da thịt của người kia.

Không, Juliette không hề chịu tác động của vụ bắt cóc. Không có gì trong cử chỉ của cô, đam mê của cô cho thấy chúng bị chi phối bởi những thủ đoạn đen tối của vô thức nhằm làm dịu thương tổn. Cô rất kiên quyết trong cuộc sống gần đây, cô đã thể hiện một ý chí cứng rắn để thoát khỏi chuyện cũ, cá tính của cô vượt xa khuôn khổ của một di chứng tâm lý. Giờ đây, Brolin tin chắc rằng họ cùng say mê nhau, chân thành, trọn vẹn.

Các cử chỉ của họ ngày càng tự tin hơn khi ham muốn xâm chiếm từng phần cơ thể, họ quên hết mọi thứ còn lại trong cơn cuồng nhiệt đê mê. Tất cả - việc họ đang làm ở đây, hiểm họa từ một kẻ giết người đáng sợ trong vùng, những khác biệt giữa họ, hay đơn giản là địa điểm nơi họ đang có mặt có vẻ không thích hợp - tất cả đều biến mất, đều bị cuốn vào trạng thái mơ hồ của cơn phấn khích.

Áo sơmi của Juliette mở sâu đến chiếc áo lót màu xanh đen, Brolin cúi đầu xuống làn da đang hướng về phía anh và hôn lên làn da ấy. Juliette ôm chặt lấy anh, đưa tay vào dưới áo anh, và ngọn lửa đam mê đó khiến họ say sưa tới mức không ai phản ứng gì khi họ cùng ngồi trên chiếc ghế ở giữa phòng.

Một dụng cụ tra tấn thực sự của những thế kỷ cực quyền.

Ở đó, họ say sưa làm tình, và Juliette bị rách da bên sườn vì một đầu nhọn bằng thép đâm vào, nhưng cô không hề phản ứng, cũng không kêu lên vì đau đớn. Quấn chặt lấy nhau, ở trong nhau, họ dâng hiến hoàn toàn cho nhau trong hương vị thần bí và nồng say, khi đam mê lúc đi kèm với vài mũi đâm đau nhói.

Sau đó, họ ở bên nhau lúc lâu, da họ hòa vào nhau qua một lớp mồ hôi. Phải nhiều phút sau họ mới xuống được khỏi tầng mây lạc thú, tầng mây đưa họ lên rất cao khỏi thế giới thực dụng và giả tạo. Nhiều phút trong khi đầu óc họ tiếp tục quay cuồng.

Thật sung sướng, một chút mệt nhoài của cơ thể và những hồi hộp mạnh mẽ cho suy nghĩ. Họ cảm thấy mình như những vận động viên vừa thực hiện được một kỳ tích, sau khi vượt qua quãng đường chạy dài mệt mỏi, ở thời điểm mà thứ nước rất được thèm khát lại chảy trên lưỡi, trong họng. Kiểu trạng thái viên mãn tinh tế khi người ta vượt qua được chính mình cả về mặt thể xác lẫn tâm hồn, khi đau đớn trở thành vui thú và khi các cảm giác tan biến trong cám dỗ của khoái lạc.

Khi họ đã đứng dậy và chỉnh lại quần áo, Brolin vòng tay ôm Juliette và dụi mặt vào mái tóc cô.

- Juliette... Juliette... Anh chỉ thầm thì vậy và ôm siết lấy cô.

Họ không nói gì, lời nói nào giờ đây cũng trở nên tầm thường.

Họ ôm nhau trong bóng tối.

Có lẽ bởi muốn thế giới trở nên có thể chịu đựng được, nên trong cuộc sống của một con người có những khoảng khắc hiếm hoi mà ở đó người ấy tự cảm thấy hoan hỉ và viên mãn, vừa trống rỗng, vừa tràn đầy, một trạng thái gần với nhập đồng, gần như tĩnh lặng tuyệt đối. Trạng thái tinh thần mà các nhà tư tưởng ở thời cách đây rất lâu gọi là Delices, rồi Eden. Một số người khác cũng dùng trạng thái đó để hiểu sự vĩnh cửu dưới cái tên Thiên đuờng.

Chính trạng thái này đã khiến Juliette và Joshua cảm thấy êm dịu cho tới tận đêm khuya.

Nhưng vì không phải đang ở nhà mình, nên họ buộc phải lấy lại dáng vẻ của "những người lịch thiệp" để quay ra bàn làm việc. Những cuốn sách cổ vẫn lặng lẽ chờ họ, mở toang lớp bìa vô liêm sỉ để phô bày các trang sách bỉ ổi truớc bất kỳ người nào.

Brolin xoa xoa thái dương. Anh không hề có ý định quay lại đó, anh chỉ mong muốn một điều: ôm Juliette trong tay và ngủ.

Một khuôn mặt đau khổ hiện ra ngay tức khắc. Brolin lại thấy Elizabeth Stinger như khi anh phát hiện ra cô, hai mắt mở trừng trừng, đống thịt nát ở trán.

Khoảng thời gian giải lao tuyệt vời đã khiến Juliette và Brolin cảm thấy sảng khoái, ít bận tâm hơn tới những phiền nhiễu của cuộc sống, thích bình yên tận hưởng trạng thái mơ màng mới nảy sinh này. Thích nghỉ ngơi.

Nhưng khuôn mặt đau khổ ấy trả lại cho Brolin tính cương quyết của một cảnh sát điều tra, và dù vẫn giữ lại phần nào vẻ thanh thản sau cơn ái ân, anh biết mình không thể nghỉ ngơi khi chưa rút ra được câu trả lời nào từ những cuốn sách này.

Anh nắm chặt bàn tay và đi về phía đống sách.

- Cần phải tiếp tục, anh nói. Cần phải tìm được ý nghĩa của hình ngôi sao năm cánh này.

Juliette chỉ gật đầu mà không nói gì.

Cô nghĩ gì vậy? Từ nãy cô không nói gì hoặc nói rất ít. Tuy nhiên, cô không thể hiện một dấu hiệu ân hận hay nuối tiếc nào. Và điều này càng được khẳng định trong hai giờ đồng hồ tiếp theo. Họ lật hết trang này đến trang khác, hết cuốn sách này đến cuốn sách khác, thỉnh thoảng lắm mới ghi chép lại, trao đổi với nhau vài nhận xét, và đôi lúc, bàn tay Juliette đặt lên gáy Brolin, nhẹ nhàng vuốt ve anh.

Bình minh đang chuẩn bị lên thì Juliette nhảy bật khỏi ghế và hất đổ một đống sách đặt ngay ngắn trên bàn. Cô cầm lấy ảnh chụp hộp sọ của Elizabeth Stinger, nét mặt cô sững lại.

- Em tìm thấy rồi, cô nói trong hơi thở gần như kiệt sức.

Brolin cúi xuống bờ vai cô.

Một hình ngôi sao năm cánh xấu xa được vẽ bằng mực và bút lông nét to của một thầy giảng giáo lý thời cổ. Brolin đọc nhanh dòng chú thích.

Một cơn rùng mình ghê tởm bẻ cong cột sống anh.

Đó chính là nỗi sợ.

Một dòng chữ được viết theo kiểu gothic:

"Nghi thức bảo vệ khỏi Linh hồn người chết."
 

hoahongden12

Active Member

Mặt trời dần phủ trên các cánh rừng 1 lớp màn màu sữa. Đã bình minh.

Brolin đưa Juliette về nhà, cô cầm tay anh dẫn vào phòng. Họ cần ngủ 1 giấc, đây là việc làm tối thiểu để giúp đầu óc họ đủ sáng suốt để suy nghĩ, để vững vàng trong 1 ngày dài sắp bắt đầu.

Sau khi chép lại thứ nghi lễ kiam, họ lặng lẽ rời khu nhà của anh chàng người Pháp giàu có, cùng với những hình ảnh tàn bạo quỷ quái trong đầu.

Brolin đặt đồng hồ báo thức sau 5h, đủ để anh lấy lại được khả năng tập trung và chịu đựng thêm 1 đêm trắng nếu cần thiết. Họ ôm nhau ngủ, 2 cơ thể mệt mỏi của họ áp chặt vào nhau đến mức chỉ để chừa ra ít phần da thịt, họ muốn yêu nhau trọn vẹn, ngay cả trong giấc ngủ.

Sau này nghĩ lại, Brolin chỉ nhớ loáng thoáng về cảm giác mệt mỏi. Anh không bao giờ biết rằng liệu có phải là 1 giấc mơ, hay cơ thể họ đã thực sự dần dần chồng lên nhau trong khi chưa tỉnh hẳn khiến họ thức giấc. Anh nhớ lại những cử chỉ dịu dàng, tiếng rên và sự thích thú lan khắp người anh như 1 vụ nổ diễn ra với nhịp độ chậm.

Nhưng đồng hồ báo thức không kêu.

Mà là tiếng chuông to dần của điện thoại di động đã kéo anh ra khỏi giường. 1 tiếng còi báo động chỉ lối cho anh trong căn phòng tối đen.

Khi cuối cùng Brolin cũng mở được máy, anh chưa kịp nói gì thì 1 giọng đàn ông bị kích động mạnh đã tuôn ra 1 tràng những lời khó hiểu.

- Nào nói nhỏ thôi! Brolin yêu cầu bằng giọng khàn khàn ngái ngủ.

- Josh, Larry đây. Cậu nhất định phải đến!

Giọng Salhindro không hốt hoảng mà kinh hoàng.

- Mấy…… mấy giờ rồi? Anh đang ở đâu? Brolin hỏi.

- Tôi vừa đến trụ sở trung tâm.

- Anh có tin gì mới sao?

Salhindro thoáng im lặng rồi đáp:

- Đúng thế, tôi đang đứng cùng Craig Nova.

- À! Đầu mẩu thuốc lá, có khai thác được gì không? Anh ấy có tìm ra mẫu ADN cần thiết để nhận dạng không?

- Chính vì chuyện này mà chúng tôi tìm cậu khắp nơi. Craig đã lấy được mẫu ADN và đã triển khai chương trình nhận dạng.

Chất adrenalun làm Brolin tỉnh hẳn.

- Thế đã có kết quả chưa? Anh vội hỏi mà không thực sự tin tưởng.

- Josh, cậu đang ở đâu?

Brolin tự hỏi có phải sự sợ hãi đang trào trong giọng của Salhindro hay không. Anh chần chừ rồi đáp:

- Ở nhà Juliette, tại sao thế?

Trong hoàn cảnh khác, hẳn Salhindro sẽ không bỏ lỡ dịp mà nhận xét rằng thật lạ kỳ khi biết Brolin ở nhà Juliette vào 1 sáng Chủ nhật, lúc mười giờ rưỡi. Nhưng ông không nói gì cả, chứng tỏ có chuyện không ổn.

- Cô ấy có ở bên cạnh anh không?

- Không, cô ấy vẫn còn ngủ.

- Tốt lắm, Josh, tôi muốn cậu ngồi xuống và thề sẽ tin vào điều mà tôi sắp nói với cậu.

- Anh nói gì thế? Các anh đã nhận dạng được hắn chưa?

Sau lưng anh, Brolin cảm nhận được sự chuyển động, có bước chân của Juliette trên thảm trải sàn.

Salhindro thở mạnh trong ống nghe như để lấy thêm dũng khí.

- Rồi. Có 1 hồ sơ trùng hợp trong cơ sở dữ liệu.

- Thế chứ!

- Tôi nghĩ là cậu sẽ không hài lòng đâu, Josh ạ.

Anh thanh tra cảm thấy máu mình đông cứng lại trong tĩnh mạch như hàng nghìn mũi kim đang đâm ngập vào anh. Juliette quàng tay ôm lấy anh và dịu dàng đặt 1 nụ hôn lên má anh. Cô ngồi lên đùi anh.

Lần này, giọng của Salhindro run rẩy thực sự:

- Josh, mẫu ADN tìm thấy trên đầu mẩu thuốc lá … chính là của Leland Beaumont.

Tên Đao phủ Portland mà cái đầu đã nổ tung thành 1 đống màu đỏ cách đây 1 năm.
 

hoahongden12

Active Member

Không thể nào.

Đơn giản là không thể tưởng tượng nổi.

Leland Beaumont đã chết vì 1 viên đạn từ khẩu Glock – súng ngắn tự động 9 li – bắn vào giữa đầu. Não hắn bay qua trước mặt Brolin thành 1 vệt đen tung tóe. Sau đó vài ngày, Leland được chôn cất và thân thể hắn giờ đây hẳn chỉ còn 1 đống mùn cho giun xéo. Hắn không thể để lại nước bọt trên đầu mẩu thuốc lá được.

Tổ điều tra Hồn ma Leland được triệu tập đến phòng làm việc của đại úy Chamberlin.

Sau cuộc điện thoại, Brolin vội vã thay đồ và kéo Juliette đi cùng đến trụ sở trung tâm.

Không thể nào để cô ấy ở nhà 1 mình. Cho dù rất kỳ lạ, nhưng tin mới này lóe lên trong đầu anh như 1 ngọn đèn báo “nguy hiểm”, vì thế anh không thể rời mắt khỏi Juliette. Cô đợi trong phòng anh, vẫn chưa biết gì về tình hình.

Brolin đặt chiếc áo Vest da xuống và đến trước mặt Craig Nova, nét mặt Craig lộ rõ vẻ mệt mỏi.

- Độ tin cậy của xét nghiệm ADN thế nào? Anh hỏi.

- Quá đủ để tống 1 người vào tù với mức án chung thân mà không có rủi ro sai sót.

- Có thể có chuyện trùng hợp khó tin khiến 1 người khác có cùng mẫu ADN như vậy không?

- Đó là cách lý giải duy nhất đấy! Bentley Cotland kêu lên.

Craig lắc đầu dứt khoát.

- Tuyệt đối không thể. Mẫu ADN của 1 cá nhân là duy nhất.

- Nhưng cũng không thể có chuyện Leland còn sống!

- Nhưng còn có 1 cách lý giải, Craig nói tiếp. Mẫu ADN gắn với mỗi cá nhân, không cá nhân nào có mẫu ADN như nhau, trừ 1 trường hợp. Anh em sinh đôi cùng trứng.

- Không đúng, Salhindro phản bác. Leland là con 1.

- Có chắc chắn không? Đại úy hỏi.

- À… có. Sao anh có thể nghĩ khác được nhỉ? Nếu có 1 đứa con nữa, thì phải có dấu vết tồn tại chứ, đúng không? Chứng minh thư, giấy phép lái xe, việc làm… Ít nhất là cũng phải có người biết. Đương nhiên rồi! Hộ tịch cũng phải có! Thời nay, người ta không thể sinh ra 1 đứa con rồi giấu nó với phần còn lại của thế giới, nhất là trong suốt hơn 20 năm! Rồi thì tại sao gia đình Beaumont lại phải giấu đứa bé lâu như vậy? Có phải chuyện trên TV đâu, người ta không thể làm sai lệch hiện thực để tạo ra chuyện giật gân!

- Thế nhưng thực tế tội phạm đôi khi lại khó tin tới mức người ta hẳn sẽ coi chuyện đó rất ngớ ngẩn khi nó diễn ra trong 1 bộ phim! Meats phản bác.

Vẻ mặt mọi người trở nên nghiêm trọng. Leland là con 1 trong gia đình Beaumont, và hắn chết đi mang theo tất cả các hướng điều tra có thể chấp nhận được để lý giải hiện tượng mẫu ADN giống hệt mới được tìm thấy.

- Có thể có chuyện đây là đầu mẩu thuốc lá cũ được giữ đến tận bây giờ để đưa chúng ta đến 1 hướng điều tra sai không? Bentley Cotland hỏi.

Craig nhún vai.

- Về lý thuyết là có, nhưng trông nó không giống 1 đầu mẩu khô, trừ khi được giữ lạnh trong ngăn đá…

- Không thể nào, Lloyd Meats lên tiếng. Hắn đến mà không nghi ngờ về cái bẫy, hắn hầu như không có bất cứ cơ hội nào để thoát ra, nếu đánh hơi thấy từ trước, hắn đã không liều lĩnh xuất hiện.

- Lloyd nói có lý, Brolin đồng tình. Nếu kẻ giết người muốn gây sai lầm cho chúng ta, hắn đã để lại đầu mẩu thuốc lá ở cạnh nạn nhân, như thế hắn không gặp nguy hiểm nào cả.

- Thế thì điều này có nghĩa là gì? Đại úy Chamberlin cao giọng, sự sốt ruột và căng thẳng khiến ông căng ra như 1 dây đàn piano sắp đứt. Mẫu ADN này từ đâu ra?

Im lặng bao trùm căn phòng. Cả 6 người nhìn nhau. Tất cả đều nghĩ đến cùng 1 điều nhưng không ai nói ra. Trừ Bentley, anh ta lại 1 lần nữa không cùng quan điểm với cả nhóm. Rõ ràng anh ta được sinh ra không phải để làm cảnh sát và ngày càng vui mừng vì điều này.

Cuối cùng, Salhindro là người nhảy xuống nước trước tiên:

- Có thể đó chính là Leland.

Mặc dù tất cả mọi người đều biết hắn đã chết và được chôn cất, nhưng không ai cho rằng chuyện này chỉ đơn giản là không thể xảy ra.Họ đã tự nhắc đi nhắc lại điều đó nhiều lần.

Brolin quyết định đã đến lúc thông báo về phát hiện của mình.

- Thưa các anh, nhờ có Juliette giúp đỡ tôi đã tìm ra…

- Juliette ư? Nạn nhân cuối cùng của Leland đúng không? Bentley ngắt lời anh.

- Tôi đã yêu cầu anh không được dùng từ nạn nhân, cô ấy vẫn khỏe mạnh.

- Anh muốn nói là anh cho phép 1 dân thường tham gia vào cuộc điều tra ư? Bentley ngạc nhiên hỏi xen lẫn chút mỉa mai có chủ ý và vì thế anh ta bị ghét cay ghét đắng.

- Cô ấy biết rõ Leland hơn ai hết, cô ấy đã từng ở bên cạnh hắn!

- Tôi cứ tưởng anh mới là chuyên gia về kẻ giết người chứ?

- Cotland, anh bắt đầu làm tôi …

- Bắt đầu làm gì anh?

Brolin bật dậy khỏi ghế, vẻ mặt hăm dọa.

- Yên lặng nào! Đại úy Chamberlin ra lệnh. Joshua, anh mệt rồi, tất cả chúng ta đều như vậy, vì thế, hãy bình tĩnh. Còn anh, tôi yêu cầu anh học cách tiết chế lời nói của mình. Nếu Brolin tiết lộ thông tin điều tra cho 1 dân thường, thì đó là chuyện của tôi, đừng can dự vào!

- Ông có cái cách điều hành mà tôi không thích.

- Được lắm, nhưng hiện tại, chưởng lý Gleith đưa anh đến đây để học, còn anh chưa phải chưởng lý, vì thế ngồi yên đấy.

Tia lửa phóng ra từ 2 con mắt của Cotland. 1 ngày nào đó, anh ta sẽ bắt đại úy phải trả giá. Khi được bổ nhiệm, anh ta sẽ làm tất cả mọi điều khiến họ phải khổ sở.

- Anh đã tìm ra cái gì? Chamberlin hỏi Joshua.

Anh thanh tra ngồi xuống và nói tiếp:

- Tại sao hung thủ lại làm hỏng trán nạn nhân bằng axit? Vì hắn không muốn ai biết được hắn đã ghi gì vào đó. Nói đúng hơn là khắc vào đó.

Chamberlin nhíu mày.

- Thực ra, Brolin tiếp tục, kẻ giết người đã khắc 1 biểu tượng thần bí vào thịt của nạn nhân. Đây là hình ngôi sao năm cánh của 1 nghi thức bảo vệ cổ xưa. Hình này được coi là có tác dụng bảo vệ “phù thủy” khỏi linh hồn của người mà hắn sắp giết. Trán các nạn nhân của Leland Beaumont cũng bị làm hỏng theo cách này. Chúng đã truyền lại cho nhau chiêu thức ấy.

- Trừ khi đó là cùng 1 kẻ. Salhindro buồn rầu nhận xét.

- Thế nghi thức ấy có thể cho ta biết điều gì? Meats hỏi.

- Không nhiều lắm, Brolin đáp. Ngoài việc đó là 1 nghi thức rất hiếm, và nó khẳng định kẻ giết người rất tin vào năng lực bí hiểm trong hành động của hắn. Có thể hắn đặt mua các tạp chí truyền hình về lĩnh vực này, hay ghé qua các cửa hiệu bán đồ thần bí và mượn nhiều sách thần bí ở thư viện. Đó là những hướng điều tra hữu ích.

Đại úy định bật dậy vì những thông tin này nhưng Brolin lại tiếp tục:

- Nhưng đó chưa phải là tất cả. Nghi thức này được cho là hữu ích đối với những người tìm kiếm sự sống sau khi chết. Nó bảo vệ người sử dụng nhưng cũng cho phép hắn dày xéo linh hồn nạn nhân. Và còn thêm nữa: “Như vậy, lúc dày xéo linh hồn của kẻ hiến sinh, người ta sống lại được sau khi chết. Đó sẽ là cuộc sống vĩnh cửu, người chết quay lại với người sống.”

- Mọi người sẽ không tin chúng ta…

Lloyd Meats bột phát nói, đây là 1 cách để không thú nhận nỗi sợ hãi đang quây lấy lỗ hổng bên rìa lý lẽ của anh.

- Leland Beaumont làm hỏng trán các nạn nhân của hắn. Hắn là 1 kẻ đam mê ma thuật và 1 kẻ điên hung dữ, Brolin nhận xét thêm.

Đại úy vặn vẹo cục tẩy trong tay.

- Thế này… Tôi không tin tất cả những chuyện vớ vẩn về ma thuật đó, nhưng tự ADN nói về chính nó. Vậy thì để loại bỏ nghi ngờ và làm yên lòng mọi người, tôi nghĩ mình không có lựa chọn nào cả, đại úy nói bằng giọng trầm đục. Tôi rất ghét làm việc này nhưng tôi sẽ xin trưởng lý giấy phép đào mộ. Ít nhất, chúng ta cũng biết được rõ ràng: Liệu có phải Leland đã thoát khỏi mộ bằng cách này hay cách khác, mặc dù điều này là không tưởng, hay có 1 kẻ nào đó đang chơi xấu chúng ta.

Bentley Cotland nhìn chằm chằm vào đại úy.

- Nhưng…Ông không thể làm việc đó: Leland đã chết ngay cả khi hắn là hạng người thối tha nhất, thì linh hồn hắn cũng có quyền được yên nghỉ, chúng ta không thể xâm phạm phần mộ của hắn như thế.

- Anh có thể lý giải được sự hiện diện của mẫu ADN của hắn trên đầu mẩu thuốc lá không?

- Không, nhưng…

- Vậy thì tôi không liều lĩnh để một kẻ như thế được tự do!

- Hắn chết rồi! Một viên đạn đã bắn vỡ sọ hắn!

Chamberlin quay về phía Meats, bỏ qua phản ứng của trợ lý chưởng lý tương lai.

- Lloyd, hãy sắp xếp việc này với nghĩa trang nơi Leland được chôn. Sau… (ông thoáng nhìn Brolin) thất bại của chúng ta ở bãi đỗ xe, tôi càng không muốn báo chí biết về việc mà chúng ta làm, nếu không tất cả chúng ta đều mất đầu. Việc đào mộ sẽ diễn ra ban đêm, khi nghĩa trang đóng cửa. Biết thế nào được, lúc nào chẳng có một tay nhà báo hơi điên điên đi giám sát mộ của một kẻ giết người phòng trường hợp…

- Vâng, tôi sẽ sắp xếp cho tối nay.

Đại úy nói tiếp:

- Brolin, anh đến đó nhé, Lloyd sẽ giúp anh một tay. Anh Cotland đi cùng với anh và sẽ chứng kiến nhiệt huyết của chúng ta. Tất nhiên là nếu anh ta muốn.

Cotland gật đầu.

Anh ta sẽ có mặt, và nếu đại úy trở thành nhân vật quan trọng trong vài năm tới, thì điều đó hoàn toàn có thể phục vụ cho các lợi ích riêng của anh ta. Có lẽ sẽ tới một ngày cần gây sức ép lên Chamberlin, và chuyện đào mộ không phải là gì khác ngoài bằng chứng về sự bất tài của ông ta, đây là việc lạm dụng quyền lực, nó sẽ là một điểm được ghi nhớ để thăng tiến trên chính trường.

Brolin và Lloyd nhìn nhau không yên tâm lắm.

Lần đầu tiên Bentley Cotland không phải người duy nhất cảm thấy khó chịu với ý nghĩ có mặt ở hiện trường.

Việc biết chắc Leland vẫn đang yên nghỉ trong quan tài không khiến ai hăng hái cả.

Chưa nói tới chuyện phải đào mộ lúc nửa đêm.
 

hoahongden12

Active Member

Leland Beaumont yên nghỉ mãi mãi trong nghĩa trang của Latourell, một thị trấn nằm bên bờ sông Columbia. Trên vùng đất đầy những khe núi dựng đứng, những cánh rừng sâu rậm rạp. Thành viên cuối cùng trong gia đình hắn, người cha tên là Milton Beaumont, muốn chôn cất hắn ở đây vì nơi đó khá gần nhà của ông ta trong rừng. Và Latourell là thị trấn duy nhất có hơn năm nghìn dân trong vòng nhiều dặm xung quanh.

Brolin ở bên Juliette một lúc sau cuộc họp. Anh chần chừ mãi về chuyện nói thật với cô về mẫu ADN của Leland. Làm gì là tốt nhất bây giờ? Cho cô biết sự thật và khiến cô sợ hãi trong khi cảnh sát chưa có được lời giải đáp? Hay nói dối cô và bảo vệ cô lâu dài trong một cái kén nguy hiểm? Cuối cùng, Anh chọn cách nói thẳng, giờ đây giữa họ còn tồn tại những mối liên hệ quan trọng hơn. Với lòng dũng cảm và quyết tâm mà cô đã rèn cho mình trong mười hai tháng qua, cô đón nhận thông tin mà không thể hiện cảm xúc. Khi Brolin cho cô biết về việc đào mộ sắp tới, cô chỉ gật đầu nói: “Hãy kiểm tra hộ em xem hắn có còn trong mộ hay không. Bây giờ em không sợ hắn có còn trong mộ hay không. Bây giờ em không sợ hắn nữa, nhưng nếu đúng là hồn ma của hắn hiện về, em không biết mình sẽ thế nào…”

Anh ra gần động viên cô, nhưng làm thế nào thuyết phục được ai trong khi chính bản thân mình còn đầy hoài nghi?

Không ai bị quy trách nhiệm một cách chính thức trong thất bại của “kỹ thuật tiên phong hành động”, Báo chí nổi giận, tìm kiếm một cái tên và một khuôn mặt mà họ có thể đưa ra chỉ trích trước công luận, nhưng cảnh sát từ chối giao nộp miếng mồi ngon. Hành động đoàn kết này có nguy cơ hạ ngục những người lãnh đạo, bắt đầu từ đại úy Chamberlin, nếu các kết quả không nhanh chóng xuất hiện để giữ vững vị trí của ông, nhất là sau khi ông tuyên bố trước báo trí rằng kẻ giết người sẽ sa bẫy.

Hơn bao giờ hết, thời gian với họ được tính từng ngày.

Thêm một ngày có thể đồng nghĩa với thêm một nạn nhân mới.

Mỗi ngày lại làm gia tăng sự nóng lòng của mọi người, Chamberlin và Brolin sẽ là những người đầu tiên phải gánh chịu. Cuộc điều tra sẽ rơi vào tay những người được đánh giá là có năng lực hơn. Thậm chí rơi vào tay FBI trong vùng. Không thiếu cớ để mời các điệp viên liên bang tới can thiệp nếu chính ông thị trưởng và chưởng lý Gleith cùng phối hợp trong việc này.

Trong chiếc xe chở Lloyd Meats, Bentley Cotland và Joshua Brolin tới Latourell, Brolin giở tờ báo Chủ nhật mà anh vừa mua. “Thất bại thảm hại!” là hàng tít chạy trên trang nhất, không chút bóng gió. Bên dưới là dòng tít phụ bồi thêm: “Với toan tính bắt giữ Hồn ma Leland, cảnh sát đã phung phí mạng sống và tiền bạc của chúng ta”. Ngay cả ông thị trưởng cũng tuyên bố xanh rờn với những lời nói mị dân đặc trưng cho những con người ở địa vị cao: “Chúng ta không chấp nhận việc một cá nhân đe dọa sự an toàn của các công dân, tôi sẽ làm tất cả trong khả năng của mình để bắt được hắn trong thời gian ngắn nhất, và để làm điều đó, tôi sẽ gặp cảnh sát trưởng ngay hôm nay. Về chiến dịch này của cảnh sát, tôi không hề biết gì nhưng chúng tôi sẽ đem vụ này ra ánh sáng và những người có lỗi sẽ bị trừng trị…” Còn hẳn một trang dài dằng dặc nữa.

Đại úy Chamberlin có thể bảo vệ Brolin bao nhiêu lâu nữa cho tới lúc người ta đòi hỏi anh phải hy sinh trước sự trừng phạt của công luận?

Chiếc xe dừng lại trước văn phòng của cảnh sát trưởng thị trấn Latourell vào cuối buổi chiều. Không khí mát mẻ, nhiều hơi ẩm, như thể cơn giông đêm qua vẫn còn rất gần, đang giấu mình sau ngọn núi, chỉ chờ đến thời điểm thuận lợi nhất là lại xuất hiện.

Ông cảnh sát trưởng Hogson không có ở đó, cấp phó của ông đã báo trước là ông đang ở một “văn phòng khác”. Trong một thị trấn nhỏ bé như Latourell, cảnh sát trưởng là một nhân vật được bầu ra, nhưng thường vẫn tiếp tục nghề nghiệp của mình song song với việc thực hiện chức trách theo luật định. Ông Hogson vốn là chủ một xưởng cưa nhỏ ở ngoại ô thị trấn.

Chiếc xe Ford màu đen chở ba đại diện của cơ quan trật tự xã hội đi hết thị trấn Latourell, ở đây họ thấy một con đường và tấm biển “Xưởng cưa Hogson” được đóng bằng đinh vào một thân cây ven đường. Sau đoạn đường ngắn trong rừng, họ ra tới một khoảng rừng thưa nhỏ.

Mùi gỗ xẻ bay trong không khí nặng nề giống như mùi cây mục. Xưởng cưa chỉ xuất xưởng một lượng gỗ rất ít, chủ yếu phục vụ các nhà máy giấy nằm trên đường từ Vancouver đến bang Washington. Xưởng chỉ gồm có ba ngôi nhà nhỏ với khoảng mười lăm công nhân làm việc trong tuần.

Nhưng hôm nay là chủ nhật, chỉ một mình Dan Hogson có mặt ở đây. Không còn tiếng máy cưa ầm ầm át đi tiếng gió trong rừng thông xung quanh. Hơi nhựa thông bốc lên dày đến mức đọng lại, lơ lửng giống như một đám mây màu hổ phách.

Vừa bước ra khỏi xe, Brolin vừa nói với Cotland:

- Tôi sẽ rất cảm ơn nếu anh để Meats và tôi nói chuyện được không?

Cotland chỉ gật đầu chứ không nhìn Brolin.

Một người đàn ông chừng ngoài bốn mươi tuổi bước ra khỏi ngôi nhà chính. Dáng người tầm thước, tóc muối tiêu cắt ngắn, mặt tròn, ông cảnh sát trưởng Hogson có vẻ dễ gần. Ông vẫy tay chào trong khi đi về phía họ.

- Các anh là những đồng nghiệp từ Portland, tôi đoán đúng không? Tôi đã nghe thấy tiếng xe của các anh đi tới.

Khi đến trước mặt họ, ông bắt tay họ rất chặt. Meats và Brolin chìa thẻ của mình ra và tự giới thiệu. Bentley lặng lẽ đi theo họ.

- Tôi cũng nhận được bản fax của văn phòng chưởng lý. Các anh yêu cầu tôi một việc làm bẩn thỉu! Nói thật là ở đây chưa từng diễn ra việc đào mộ.

- Chính vì thế mà chúng tôi cần ông giữ bí mật, Meats vừa nói vừa vuốt bộ râu ngắn màu đen. Đây chỉ là công việc kiểm tra thôi, không có lý do gì để thông báo cho nhân dân cả.

- Anh thật buồn cười! Anh nghĩ là sẽ không ai biết việc này sao?

- Thực ra, chúng tôi đã tính đến chuyện thực hiện vào ban đêm, Brolin nói thêm.

Rõ ràng đây là một ý tưởng quá kỳ cục đối với Dan Hogson, người vừa trúng cử cảnh sát trưởng lần thứ hai liên tiếp.

- Vậy vấn đề chính xác là gì? Tôi nhận được giấy phép đào mộ của Leland Beaumont, tôi đoán rằng có liên quan đến các vụ giết người gần đây, đúng không?

Brolin và Meats kín đáo nhìn nhau.

- Có thể nói là đúng như vậy, Meats đáp. Chúng tôi muốn đảm bảo chắc chắn là xác của Leland không bị…đánh cắp.

Hogson giật nảy mình như bị ong đốt.

- Kẻ nào lại ngớ ngẩn đến mức ăn cắp một xác chết cơ chứ?

- Xin ông hiểu rằng chúng tôi mong ông giữ bí mật, Brolin nhắc lại. Chúng tôi không muốn mọi người có ý nghĩ không tốt.

- Tùy các anh. Các anh phải biết rằng ở khắp vùng này, ai cũng ít nhiều quen biết Leland.

Brolin nhăn nhó.

- Sao lại thế?

- Vì khi còn nhỏ, hắn từng đến làm việc ở đây trong hai tháng hè, Tháng Bảy, Tháng Tám năm 96. Tôi còn nhớ vì năm đó, xưởng cưa của tôi bị cháy, nhưng không liên quan gì đến hắn cả, đấy là vào mùa thu.

- Tôi không biết hắn từng làm việc cho ông, Brolin ngạc nhiên.

- Thật ra mà nói, đó là… một cuộc trao đổi rất bình thường. Hắn giúp chúng tôi đưa gỗ lên xe và dỡ gỗ xuống xe, còn tôi đưa cho hắn một ít tiền, các anh phải hiểu là không có gì chính thức cả.

Brolin gật đầu.

- Thế hắn thế nào?

- Ồ, không hề hung hăng. Hắn hơi cô độc, ít nói. Tôi không cho là hắn có vẻ đầu óc hạn chế, các anh hiểu chứ, nhưng hắn không lanh lợi lắm. Dù sao hắn cũng không được tập trung. Kiểu người mơ tưởng, luôn ngập chìm trong trí tưởng tượng. Hắn có làm hai hay ba trò ngu ngốc nhưng không có gì nghiêm trọng cả, dù sao tôi cũng không bao giờ tiên đoán được rằng một ngày nào đó, hắn có thể làm… các anh hiểu chứ.

- Thường là như thế. Kiểu người này sống quá nhiều trong thế giới của riêng mình nên không thể hiện ra lòng hận thù và sự bất mãn bên trong.

Cảnh sát trưởng Hogson nhíu mày và xoa xoa cằm, có vẻ ghê tởm, nửa không hiểu.

- Thôi, tốt hơn hết là chúng ta nên tới đó nếu muốn có được máy xúc trước khi đêm xuống, ông ta nói. Đợi tôi đi lấy một ít giấy tờ, tôi sẽ quay lại ngay.

Hai thanh tra đồng ý, còn Hogson đi về phía văn phòng. Rốt cuộc, thuyết phục được ông ta cũng không khó và nhanh.

***

Cánh cổng sắt của nghĩa trang Latourell được đóng lúc mười chín giờ, giống như mọi ngày chủ nhật khác. Sau đó, người quản trang lái chiếc máy xúc đến nơi chôn xác của Leland.

Brolin rất ấn tượng với quy mô của một nghĩa trang ở thị trấn nhỏ bé như thế này. Ban đầu anh cứ nghĩ đó chỉ là một bãi bia mộ nhỏ, nhưng thay vào đó, Latourell lưu giữ dấu tích của người dân từ hai thế kỷ nay: thợ đặt bẫy săn, người đào vàng vãng lai hay thợ săn bắn sống quanh vùng. Các ngôi mộ nhô lên khỏi mặt đất như những ngón tay xương xẩu buồn bã hướng lên trời. Trên tấm đá nhẵn thín vì bị bào mòn, chữ viết đã mờ hết, mãi mãi xóa bỏ quyền tồn tại lịch sử của những người nằm ở đây vì họ đã trở thành vô danh. Đây là một quả đồi tang tóc, như bước thẳng ra từ một câu chuyện của Washington Irving, chỉ còn thiếu máu trên đỉnh núi.

Cảnh sát trưởng Hogson đứng lùi về phía sau, kính cẩn quan sát máy xúc làm việc giữa những bia đá gần như bị bao phủ bởi rêu và dây gai leo. Rất nhiều tấm bia không còn được chăm sóc, đến người quản trang cũng không bảo vệ chúng khỏi bị thiên nhiên tấn công.

Chúng bị lãng quên, giống như một hành động xấu trong quá khứ biến mất khỏi đầu óc chúng ta để nhường chỗ cho cuộc sống thường ngày và những thói quen nhàm chán.

Mặt trời vừa mới phủ màu máu lên cảnh quan đồi núi và giờ đã nhường lại không gian cho đêm và mặt trăng huyền bí dưới lớp màn mưa và mây. Quản trang Troy Subertland ở lại giúp đào mộ, ông là người duy nhất biết điều khiển chiếc máy xúc nhỏ.

Cả năm người cúi đầu, lặng lẽ chịu đựng mưa lạnh, hạn chế cử động đến mức tối thiểu để nước mưa rơi xuống, nó uống hết thứ dinh dưỡng lỏng đó, dễ dàng nuốt trôi vào tận những tầng sâu thối tha của mình.

Bầu không khí im lặng gần như nghiêm trang bao trùm tất cả. Nhưng với Meats và Brolin, đây không phải là sự tôn trọng thần thánh hay một kiểu mê tín thời xa xưa nào. Đất càng bị đào sâu dưới gầu máy xúc, hai thanh tra càng cảm nhận thấy rõ sự hiện diện của Leland. Sự hiện diện ấy tăng dần, làm không khí trở nên ngạt thở vì tính cách điên rồ của hắn.

Trong bóng đêm chỉ được chiếu sáng bằng đèn pha của máy xúc, Brolin muốn cam đoan rằng chắc chắn sẽ có hơi lân tinh bốc lên từ nơi chôn xác của kẻ từng được đặt biệt hiệu là đao phủ Portland khi hắn còn hoành hành.

Thật ra, toàn bộ cảnh quan dường như đã bị phá hỏng bởi dấu vết của cái chết và sự điên rồ. Cây cối vươn cao về phía các vì sao như những con yêu tinh uốn éo, và bóng tối ở đây dường như sâu thẳm hơn ở bất cứ nơi nào khác.

Trong nửa tiếng tiếp theo, không ai tìm ra lời nào để nói, họ bất lực tham dự vào việc đánh thức cái Ác.

Rồi răng máy xúc đào thành một hố sâu.

Một cơn rùng mình lướt qua xương sống của tất cả mọi người giống như một luồng gió độc.

Brolin cầm lấy một trong những cái xẻng mà người quản trang đã chuẩn bị cho họ, Meats cũng làm theo. Họ tiến gần cái hố.

Bentley và cảnh sát trưởng Hogson vẫn không hề động đậy.

Dưới đáy hố bùn hiện ra góc sáng hơn của thứ từng là quan tài. Tay cầm xẻng, hai người nhảy xuống hố rồi bắt tay vào đào moi quan tài lên.

Nước mưa chảy dọc theo những vách đất mềm, giống như hàng trăm tĩnh mạch nhỏ phập phồng. Một vũng đen dài càng lúc càng dài thêm, nổi trên bề mặt là đám bọt nước màu nâu lẫn với những mảnh vụn thực vật. Nước ngấm vào giầy của hai người, cái lạnh liếm dọc sống lưng họ bằng cái lưỡi của loài bò sát.

Họ đào, đẩy và ngâm người trong cái hố. Sau gần mười phút ở trong hố, mưa và bùn đã ngấm vào thân thể họ, bao phủ từng mẩu da, từng lớp quần áo, giống như nước của một đầm lầy bốc mùi thối.

Và họ từ từ lôi cái chết ra khỏi nơi ẩn náu của nó.

Khi quan tài đã lộ ra hoàn toàn, Meats vứt xẻng lên đó. Brolin thoáng do dự, anh muốn giữ cái xẻng lại như một thứ vũ khí khi mở nắp quan tài. Nhưng như vậy thật ngớ ngẩn, thế nên anh cũng vứt xẻng lên phía trên hố.

Bentley Cotland, cảnh sát trưởng và Troy Subertland từ nãy vẫn đứng quan sát một cách ngờ vực, giờ cùng bước lại gần, đặt chân ngay trên miệng hố.

Tóc bết vào trán vì nước mưa, Brolin kêu to về phía Cotland:

- Đưa cho tôi một cái đèn, hoặc chiếu sáng cho chúng tôi từ trên cao!

Anh phải hét thật to nhiều lần mới át được tiếng mưa đập mạnh.

Cotland thực hiện ngay lập tức, tay cầm một chiếc đèn pin cực mạnh soi từ phía trên hố, chùm sáng nhỏ màu trắng in trên một cây sồi bị vấy bẩn.

- Đây là thời điểm của sự thật, Brolin nói nhỏ với Meats.

Họ mở chốt trên nắp và mở nó ra sau một tiếng kèn kẹt ghê rợn.

Mưa rơi tầm tã trên nghĩa trang. Tiếng nước rơi trở nên khó chịu, những giọt nước vỡ tan trong vũng nước, trong bùn, mặt đất uống lấy nước mưa để rồi trào ngược trở lại, để tự rửa mình. Toàn bộ nghĩa trang nhớp nháp, bài tiết ra phần rữa của các xác chết.

Đêm đen kịt và lạnh buốt, thỉnh thoảng gió gào rú giống như tiếng chó sói tru lên bi thảm.

Và cảnh tượng mà họ nhìn thấy sẽ còn ám ảnh họ rất lâu, cho tới khi họ trút hơi thở cuối cùng.

- Khốn nạn…Meats thốt lên khi chứng kiến điều không thể xảy ra.

Dưới mưa lạnh, anh làm dấu thánh giá, mặc dù không còn đặt chân đến nhà thờ từ nhiều năm nay.

Mi mắt họ không thể chớp nổi trước cảnh tượng ghê rợn đó.

Một chiếc quan tài không có gì bên trong.

Một chiếc quan tài hoàn toàn trống rỗng.
 

hoahongden12

Active Member

“Các ông không hiểu tôi.

Các ông không đủ khả năng hiểu tôi.

Tôi nằm ngoài trải nghiệm của các ông.

Tôi nằm ngoài cái Thiện và các Ác.”

Lời nói trong buổi xử án của Richard Ramirez,

bị kết án tử hình vì đã giết mười bốn người.

* * *

Đêm bao phủ toàn bộ Portland, trùm lên những vực thẳm và những cánh rừng nơi đầy nỗi khiếp sợ âm ỉ về cái chết đang lảng vảng xung quanh. Những đám mây khổng lồ màu đen trôi qua giống như những bóng ma lặng lẽ, bóp nghẹt cả vùng dưới tấm áo choàng tang tóc của nó.

Đêm hôm đó, Brolin không đến nhà Juliette. Sau khi đào mộ Leland Beaumont, anh đã về nhà để trốn chạy nỗi sợ hãi. Vốn rất ít uống rượu, nhưng anh đã nốc hết một phần ba chai Jack’s phủ đầy bụi. Anh tắm dưới vòi hoa sen nóng rãy, gần đến mức làm anh đau đớn. Rồi anh chui vào chiếc áo phông cũ của học viện Quantico, chiếc áo màu xám sờn mòn với khẩu hiệu của FBI được viết bằng chữ đậm: Trung thanh, Dũng cảm, Liêm khiết. Anh cảm thấy an toàn khi mặc nó, giống như đang ở trong dấu tích còn lại của một thời trung thực đã qua. Thời mà anh biết anh đi đâu, làm gì và tin vào cái gì. Đấy là trước khi anh mất đi ảo tưởng về nghề nghiệp.

Trong sảnh nhỏ thông với phòng khách, Brolin nghe tiếng nước rỏ xuống từ áo vest của mình. Anh quay đầu và trông thấy đôi giày dính đầy bùn, hình ảnh ngôi mộ trống rỗng của Leland lại hiện ra với tất cả những điều tưởng như không thể xảy đến.

Cần phải nhanh chóng mở một cuộc điều tra bổ sung về vụ xác của Leland biến mất. Bởi đây không thể chỉ là chuyện đào mộ. Leland đã được chôn cất, hắn đã chết.

Rốt cuộc, mày có chắc không? Mày có mặt khi chôn cất không?

Không thể thế được, Leland đã lĩnh một viên đạn vào giữa đầu, hắn không thể sống sót bằng bất cứ cách nào. Cái xác lạnh ngắt của hắn đã được các bác sĩ khám nghiệm. Khẳng định chắc chắn.

Nhưng mày có kiểm tra xem liệu cái xác đã được đặt trong quan tài khi chôn cất hay không?

Não hắn đã bay mất cùng với hộp sọ.

Leland thực hành ma thuật. Hắn muốn trở nên bất tử.

Brolin tự tra tấn mình trong tâm thức vài phút rồi bật máy chơi điện tử. Anh đã không chơi nữa từ… từ hai tuần, quả là một kỳ tích! Bức xạ từ màn hình ti vi và động tác giật giật khi chơi đưa anh rời khỏi thực tế. Khi những xác chết sống lại đầu tiên hiện ra, Brolin ấn nút “off”. Anh ngủ một lát, một giấc ngủ trống rỗng, không mộng mị, không nghỉ ngơi.

Anh dậy lúc bảy giờ, chỉ kịp tắm qua rồi lái chiếc Mustang lao đến trụ sở cảnh sát trung tâm. Dạ dày réo ầm ĩ, Joshua nuối tiếc đêm ở nhà Juliette, cảm giác yên tâm trong vòng tay cô và cốc nước cam ép buổi sáng.

Salhindro vừa đặt điện thoại xuống thì anh thanh tra bước vào. Là người được coi như không có vai trò trực tiếp, Salhindro tham gia cuộc điều tra với một sự tận tâm gần giống chứng tốt bụng bệnh lý, nhưng đó là tính thích bận bịu với công việc của ông mà thôi. Không ai nhận xét gì, kể cả đại úy Chamberlin hay các thanh tra của Phòng điều tra tội phạm. Bắt giữ tên giết người và Quạ là ưu tiên trên hết, không tính đến chức năng của từng cá nhân.

Khi khám phá ra ngôi mộ rỗng, Meats và Brolin đã báo qua điện thoại cho đại úy và Salhindro, vì thế Salhindro chỉ gật đầu chào anh thanh tra trẻ khi thấy anh đi qua hành lang. Họ không muốn nói về chuyện đó, vẫn chưa muốn.

Những giờ đầu tiên của buổi sáng trôi qua nhưng Brolin không hề cảm thấy mệt mỏi. Anh đã điện thoại cho Lloyd Meats. Meats quay lại nghĩa trang Latourell từ sáng sớm để thẩm vấn người quản trang hiện tại và người quản trang trước đó về khả năng xảy ra một vụ đào trộm mộ. Nhưng không thu được kết quả gì. Không người nào nhận thấy bất cứ điều gì xảy ra với ngôi mộ của Leland Beaumont trong mười hai tháng nó hiện diện ở đây.

Carl DiMestro gọi điện lúc khoảng mười giờ rưỡi để thông báo một tin mới:

- Tổ tái tạo khuôn mặt của nạn nhân đầu tiên đã kết thúc công việc hôm qua. Họ đã làm việc cả bảy ngày trên bảy và tỏ ra hài lòng với kết quả, theo họ, hoàn toàn có thể khai thác được.

- Tốt lắm, Carl, hãy chụp ảnh khuôn mặt và gửi cho tất cả các đồn cảnh sát trong bang, gửi cả đến bang Washington nữa, có thể quê nạn nhân ở đó. Hãy gửi một bức ảnh thật rõ nét tới tất cả các báo ở Portland và Salem, cho dù báo có số lượng phát hành nhiều hay ít. Anh phụ trách việc này có được không ?

- Cô X của chúng ta sắp trở thành bạn ăn sáng của tất cả người dân bang Oregon.

- Cảm ơn Carl.

- Đợi đã, vẫn chưa hết. Về loại axit được sử dụng để làm bỏng trán, máy đo khối phổ cho thấy có anhydride và một số hợp chất phổ biến khác như hydro. Thực ra, cần phải tách thành phần thuộc về thịt của nạn nhân ra khỏi những thức được thêm vào. Những hydro kết hợp với oxy hoàn toàn có thể tạo thành nước cần thiết cho H2SO4, axít sunfuric. Điều này không giúp được gì nhiều cho anh đâu, bản thân axít này là loại rất phổ biến, có thể thấy ở khắp nơi, ngay cả trong trường học. Ngoài ra, tôi đã thấy có kết quả thăm dò của Craig về Elizabeth Stinger. Các mẫu phẩm lấy bằng máy hút bụi cho thấy một lượng bột phấn nhất định.

- Phấn ư?

- Đúng. Hình như ở trên nền nhà, xung quanh nạn nhân, một lượng rất ít nên không nhận thấy được bằng mắt thường trong bóng tối, nhưng có bụi phấn trắng.

- Có thể do vết giày của hắn để lại không? Ví dụ như hắn đến đó từ một công trường khai thác đá chẳng hạn?

Brolin nghe thấy tiếng Carl lật giở báo cáo.

- Đợi đã … Không, lượng bột phấn nhiều hơn những gì mà vết chân có thể để lại, và rất có mục tiêu. Bột phấn chỉ có ở quanh xác, và chủ yếu ở… ở nơi lẽ ra là hai đùi của nạn nhân. Theo Craig, chính kẻ giết người đã mang phấn tới, hắn dùng phấn, vì thế bụi rơi ra nền nhà.

Brolin ghi lại các thông tin và cảm ơn Carl DiMestro rất nhiều vì công việc của cả nhóm khoa học.

Rồi anh ngồi phịch xuống ghế bành và bắt đầu cắn môi một cách rất máy móc. Hướng điều tra axít sẽ không đưa họ tới đâu cả, loại axít này không đến nỗi hiếm để có thể tìm ra một người có khả năng đã mua nó. Ngược lại, yếu tố thứ hai tỏ ra hay ho hơn. Phấn dùng vào việc gì ở đó? Lại còn với một lượng khá ít, như thế kẻ giết người viết gì đó bằng phấn, sau đấy xóa đi, vì cảnh sát không tìm thấy dòng chữ nào cả.

Cũng giống như việc hắn khắc một hình ngôi sao năm cánh lên trán các nạn nhân rồi sau đó dùng axít xóa đi.

Giống như một quân domino đổ bao giờ cũng kéo theo quân bên cạnh, nhận xét này làm bật lên trong đầu Brolin một ý tưởng khác. Kẻ giết người đã vẽ hình ngôi sao năm cánh lên nền nhà, ở nơi hắn cắt đi hai chân của Elizabeth Stinger. Một hình vẽ ma quỷ với ý nghĩa bí hiểm.

Brolin vùi mặt vào hai bàn tay. Thêm một khả năng nữa vừa xuất hiện, nhưng nó sẽ không có giá trị gì lắm một khi chưa được kiểm nghiệm. Không có hình vẽ cụ thể của biểu tượng đó thì chỉ dẫn không có sức nặng, vì thế anh quyết định gạt thông tin này vào một góc trong đầu và chuyển sang chủ đề khác.

Anh mở tập hồ sơ đề “Leland Beaumont” và lật vài trang cho tới khi thấy thứ mà anh đang tìm: dòng chữ “địa chỉ gia đình”.

Trang trại Quạ, Đường Bull Run, Hạt Mulnomah.

Cái tên quả là kỳ dị đối với một nơi ở. Độc địa và mù mờ, chào mừng đến với họ hàng của gia đình Adams.

Brolin gõ móng tay xuống mặt bàn, rồi anh gật đầu.

Anh sẽ tới thăm ông Milton Beaumont. Lẽ ra anh phải làm việc này từ lâu rồi. Với đầu óc hơi ngây ngô, ông già đó có thể kể ra vài bí mật.

Brolin mở chiếc tủ trong góc rồi lấy ra một cái cặp bằng nhựa. Anh không cần phải kiểm tra thứ đựng bên trong, anh đã thuộc lòng.

Anh đóng sập cửa lại và đang lao thẳng về phía thang máy thì giọng đại úy Chamberlin khô khốc vang lên:

- Josh! Đợi một lát!

Một thoáng vô vọng hiện lên trong ngữ điệu của ông.

- Chúng ta lại vừa nhận được một lá thư nữa.

- Gì cơ? Có chắc chắn là của hai kẻ đó không?

- Nội dung thư xác thực điều đó. Lại đây.

Mùi thuốc lá sặc sụa trong phòng của đại úy. Bentley Cotland đang ngồi ở đây, Salhindro vừa mới tới.

- Thư mới đến cách đây đúng một tiếng, bằng đường thư tín thông thường, Chamberlin thông báo. Fred Chwimsky đã quét bằng đèn Polilight và luminol nhưng không thu được kết quả gì. Có vẻ nó không chứa đựng thông điệp ẩn giống như thư trước. Nhưng nó chẳng cần thêm gì cũng khiến người ta lạnh xương sống.

Ông chìa lá thư cho Brolin. Thư được in ra, giống như những lá thư trước.

Thưa các ông thanh tra,

Lần này, không có vần, chẳng có thơ, cũng chẳng có chỉ dẫn nào hết.

Các ông đã ăn gian. Cái bẫy cỏn con đó thật nực cười, nó thể hiện sự kém cỏi của các ông. Nếu các ông nghĩ rằng có thể ngăn cản được tôi thực hiện bổn phận của mình, thì hãy cố lên. Thế nhưng tôi đã bị xúc phạm khi các ông coi tôi như một con thú tầm thường mà người ta thường vây dồn và giăng bẫy. Các ông đã đánh giá thấp tôi. Vì thế tôi sẽ trừng phạt các ông.

Giọng điệu ngạo nghễ của ông Chamberlin, sếp của các ông, khiến tôi bị sốc nặng, hợm hĩnh đến thế mà kết quả lại tồi tệ như vậy, điều này chỉ khiến tôi khinh thường, và phải thừa nhận rằng tôi cảm thấy vui vẻ khá lâu khi cái kế hoạch cỏn con thống thiết của các ông bị thất bại. Nếu biết trước, tôi đã quay phim lại cảnh tượng đó, đài truyền hình hẳn sẽ thích lắm.

Bây giờ, tôi trở lại với Tác phẩm của mình. Sau khi cú trừng phạt được giáng xuống, có thể tôi sẽ lại liên lạc để các ông tiếp tục theo dõi diễn biến công việc của tôi.

Đã quá chán ngấy các quý ngài,

Tôi.

Brolin đặt lại lá thư vào chiếc túi nhựa bảo vệ trong khi Chamberlin căng thẳng vuốt ria mét.

- Không ai biết gì về những lá thư mà kẻ điên khùng này đã gửi cho chúng ta ngoài anh, vì thế tôi nghĩ rằng nó đủ đặc biệt và chính xác để xác định người viết. Joshua, anh nghĩ thế nào?

- Vâng, đúng thế. Có nhắc đến các chỉ dẫn, vần và thơ, tất cả những thứ có trong các thư trước. Đây không phải trò lừa. Ngoài ra, còn một số điều cũng rõ ràng. Hắn cảm thấy mình được mang một số mệnh mà hắn rất yêu thích, hắn nói về “tác phẩm”, về “bổn phận”, v.v... Hắn không hề nhắc đến kẻ còn lại, kẻ mà chúng ta nghĩ là tay sai của hắn. Hắn chỉ nói bằng ngôi thứ nhất, không bao giờ nói “chúng tôi”, như thể đối tượng kia không tồn tại, hoặc chỉ là một công cụ. Cũng giống như các nạn nhân của hắn, hắn tuyệt đối không tôn trọng họ chút nào, họ không phải là con người, mà chỉ là những đồ vật để thỏa mãn và hắn có toàn quyền với họ. Bằng chứng là hắn nổi giận vì bị vây dồn “như một con thú”, theo đúng lời của hắn, nhưng hắn cũng làm y như vậy với các nạn nhân. Họ chẳng là gì cả, nhưng khi hắn bị đối xử như vậy, hắn nổi cơn điên.

Brolin thoáng nhìn về phía Bentley Cotland và bất ngờ vì anh ta vẫn chưa tìm được gì để đáp lại. Brolin nói tiếp:

- Song dù tức giận chúng ta, hắn vẫn viết thư cho chúng ta và cho chúng ta hiểu rằng hắn sẽ còn tiếp tục. Hắn cần được công nhận. Lời lẽ của hắn chứng tỏ hắn có một phông văn hóa nhất định mà một kẻ giết người hàng loạt thường không có được, vì chúng thường là những kẻ thảm hại. Trừ khi chúng ta đang đối diện với một kẻ rất thông minh, lắm mưu mẹo và có học thức. Hắn sử dụng từ ngữ khá kiểu cách, chính xác, và hắn kết thúc bằng một từ mà mọi người gần như không sử dụng nữa, rất văn vẻ: “các quý ngài”. Có thể hắn tự học qua sách vở. Hắn xây dựng hành trang văn hóa thông qua việc đọc sách, điều này vừa lý giải cho cách dùng từ văn vẻ, vừa lý giải cho nhu cầu được công nhận của hắn. Hẳn là hắn sống một mình hoặc với “tay sai”, hắn đối xử tàn tệ với tên kia vì tên kia không đánh giá được tài năng của hắn. Có thể hắn thấy mình không được đánh giá đúng mức, hắn đã tích lũy được biết bao kiến thức nhưng lại chưa bao giờ có cơ hội khoe ra. Hắn nhút nhát hoặc khó hòa nhập với xã hội, không giao du rộng và luôn bất mãn vì không ai biết được hắn thông minh đến mức nào. Điều đó khiến hắn bực tức và hắn nhất định phải nuôi lòng hận thù với tất cả mọi người, bởi hắn đứng tách biệt. Vì thế hắn đùa giỡn với chúng ta. Hắn có một công việc mà hắn tự cho là mình làm cực giỏi, và các đồng nghiệp của hắn hẳn phải coi hắn là một kẻ tự phụ hoặc hơi điên, nhưng không nguy hiểm. Hắn điều khiển người khác rất thiện nghệ, tôi nghĩ thế. Cuối cùng, một đặc điểm liên quan tới những gì tôi đã nói ở trên, đó là hắn mắc chứng tự mê cực nặng. Hắn ký tên “Tôi” và cho rằng lẽ ra chúng ta không nên giăng một cái bẫy nực cười đến thế, như thể chúng ta không xứng đáng bắt được hắn.

- Anh nói rất ấn tượng, Cotland nhận xét. Tất cả chỉ qua đúng một lá thư!

Cotland đã đánh mất vẻ ngạo nghễ và khiêu khích của anh ta, cảnh tượng ngôi mộ trống rỗng dưới cơn mưa đêm tầm tã rõ ràng đã đặt lại anh ta vào đúng chỗ của mình. Nhưng Bentley không ảo tưởng nữa, cũng giống như sau khi giải phẫu tử thi, anh ta chịu đựng và đánh mất vẻ hung hăng, nhưng rồi nhanh chóng trở lại là Bentley Cotland, người duy nhất và độc nhất. Kẻ tự phụ. Người ta không thể thay đổi bản chất của một con người.

- Đây chỉ là một cách diễn giải, dần dần khi có thêm nhiều chi tiết, chúng ta có thể thu gọn thêm hồ sơ mô tả tâm lý cho tới khi có được một ý tưởng thật chính xác về hắn, về cách suy nghĩ của hắn.

Đoán trước là Cotland sẽ đáp lại một cách mỉa mai hoặc hung hăng, đại úy Chamberlin vội tiếp lời:

- Các anh thấy đấy, hắn thông báo rõ ràng rằng hắn sẽ lại tiếp tục ra tay. Ai, ở đâu và như thế nào? Hắn không cho chúng ta biết.

- Nhưng hắn còn giết người nữa, vụ án sắp tới sẽ dã man hơn các vụ trước. Lần này, hắn sẽ giết người vì chúng ta, để làm chúng ta đau đớn. Để động chạm trực tiếp đến chúng ta, chứ không phải để phục vụ các ý đồ của hắn. Không nên xếp vụ sắp tới vào loạt vụ mà hắn đã làm, Brolin dự đoán, ánh mắt rầu rĩ.

- Tên khốn kiếp này khinh thường chúng ta! Bentley phẫn nộ. Phải làm gì đó chứ, hắn sẽ giết người trước mắt chúng ta mà chúng ta lại không đủ khả năng hành động! Có đúng thế không, cảnh sát Portland?

Salhindro đứng dậy và cúi xuống trên Cotland, hai tay chống vào phần tay ghế.

- Chúng tôi đang làm tất cả những gì có thể, đồ ngớ ngẩn ạ! Tên này giết người một cách ngẫu nhiên, hắn chọn nạn nhân theo những tiêu chí riêng của hắn, không có mối liên hệ nào, không có động cơ rõ ràng nào, đây là ác mộng đối với tất cả các điều tra viên. Anh tưởng tất cả chúng tôi đều muốn nhanh nhanh chóng chóng thấy nạn nhân tiếp theo ư? Đến báo tin cho gia đình nạn nhân ư? Chịu đựng sự lên án của các phương tiện truyền thông vì hung thủ quá ranh ma, không để lại dấu vết gì ư? Có những kẻ giết người như John Wayne Gacy đã từng giết ba mươi ba nạn nhân rồi mới vô tình bị bắt. Sát thủ Zodiac đã sát hại bốn mươi ba người rồi biến mất và đến nay vẫn chưa lộ mặt. Ở đây, đã có hai nạn nhân, và tất cả chúng tôi đều mất ăn mất ngủ, nhưng khổ nỗi một cuộc điều tra luôn diễn biến chậm và giật cục. Còn anh, anh chỉ có một ý nghĩ, đó là …

- Larry… Larry! Chamberlin ngắt lời.

Salhindro lại đứng thẳng lên, mặt Cotland lại sáng bừng và hằn lên màu máu.

- Các anh, chúng ta đừng buông xuôi, hãy giữ đoàn kết, bây giờ không phải lúc để mất tinh thần, đại úy góp ý. Larry, chúng ta sẽ tăng gấp đôi quân số điều tra trong bốn mươi tám giờ, hãy triệu tập những người đang nghỉ phép, ngay cả những người nghỉ ốm cũng phải giúp đỡ một tay trong chừng mực cho phép. Tôi muốn chúng ta rải quân theo chiến thuật bàn cờ trên khắp thành phố và trong mọi lúc, nhất là ở những khu vực vắng vẻ mà kẻ giết người ưa thích.

- Tôi nghĩ là nạn nhân tiếp theo của hắn sẽ bị giết trong đường cống, Brolin nói. Hắn giết người theo Địa ngục của Dante, theo chín tầng dưới lòng đất, và Elizabeth Stinger đã được tìm thấy trước một cửa cống. Hình ảnh so sánh khá rõ ràng.

- Josh, chúng ta không thể cử người tuần tra dưới đó, biết bao nhiêu người cho đủ! Chamberlin rất tiếc phải phản bác.

- Nhưng trước khi tiếp tục “tác phẩm” của mình, hắn sẽ phải trừng phạt chúng ta, hắn sẽ tìm cách giết một người để gây tổn hại cho chúng ta. Chắc chắn hắn sẽ sắp đặt để đó là một vụ giết người được biết đến rộng rãi, bằng cách thông báo cho báo chí. Nếu trở thành trò cười cho thiên hạ, chúng ta sẽ bị mắc kẹt giữa hắn và công luận, bị cô lập và gần như nằm bên lề xã hội giống như hắn. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu hắn hành động như thế.

- Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ tăng thêm quân số tuần tra, mở các tổng đài phụ và mỗi lời khiếu nại sẽ được xử lý một cách nghiêm túc nhất.

- Không dễ đâu! Salhindro nhận xét.

- Thưa đại úy, tôi rất muốn tăng cường bảo vệ Juliette thêm vài giờ, Brolin khẩn thiết nói với giọng trầm hơn. Cô ấy… cô ấy là một yếu tố tượng trưng quan trọng. Kẻ giết người cố hướng chúng ta tới Leland bằng cách sử dụng các phương pháp giống hệt, mà Juliette là người duy nhất thoát khỏi Đao phủ Portland. Ông có hiểu ý tôi không?

- Joshua, tôi huy động hai người thường xuyên bảo vệ cô ấy, với thời gian nghỉ luân phiên, chúng ta phải cử tới đó sáu người! Trong đa số các trường hợp, chỉ duy nhất một cảnh sát mặc sắc phục đứng gác và chấm hết, anh cũng biết đấy. Chúng ta không có đủ quân số…

Đại úy và thanh tra nhìn nhau, với sự đồng cảm và tôn trọng, rồi Brolin chầm chậm gật đầu.

- Vâng… tôi hiểu.

Salhindro đi về phía cửa.

- Tôi đi tập hợp lực lượng.

Ông bước nhanh ra ngoài. Brolin cũng đứng dậy, nhưng đại úy lên tiếng khiến anh dừng bước.

- Anh có gì không? Một hướng điều tra, hay bất cứ thứ gì có thể khiến tôi an tâm?

Brolin lưỡng lự rồi nhún vai,

- Tôi sẽ bắt đầu lại từ con số không. Tôi quay lại nguồn gốc của cái Ác, nơi nảy sinh tội ác.

Anh cầm lấy chiếc cặp nhựa nhỏ của mình rồi biến mất trong đám đông ồn ào.
 

hoahongden12

Active Member

Cái bóng sừng sững của núi Hood bao trùm tất cả các cánh rừng trong vùng. Ở độ cao hơn ba nghìn bốn trăm mét, lớp màn tuyết trắng tinh phản chiếu lại ánh nắng nhạt của tháng Mười giống như một chiếc gương khổng lồ.

Chiếc xe Mustang chạy trên dải màu xám – tím của con đường. Đi ngang qua vài thị trấn nhỏ hiếm hoi, những cảnh sắc sinh động duy nhất trên đường, Brolin cố tập trung vào con đường chứ không ngắm nhìn phong cảnh.

Người nào chưa bao giờ đặt chân tới bang Oregon sẽ không thể tưởng tượng được hết không khí trong những cánh rừng già ở đây. Ở chỗ ngoặt của một con đường, một vực thẳm hẹp xé toạc mặt đất để đón nhận dòng thác hung dữ chảy dài ba mươi mét về phía dưới, hay một vách đá khổng lồ có nguy cơ bất ngờ đè nát người. Ở đây, cây cối có màu đen, khu vực giữa rừng chưa từng có dấu chân người, và những ngọn núi trập trùng bao quanh vùng đất bí ẩn này nom giống như đội quân những phù thủy da đỏ.

Trong khung cảnh kỳ bí ấy, một người dạo chơi bình thường hẳn sẽ nhanh chóng cảm thấy bị giằng xé giữa một bên là nỗi sợ hãi âm ỉ từ sâu thẳm trong lòng và bên kia là trạng thái ngất ngây trước cảnh đẹp.

Vì thế Brolin từ chối quan sát những thân cây nhiều mấu nom giống những con người cùng hòa vào một vở ba lê đau đớn và hấp hối. Anh nhớ lại bản đồ hạt, hy vọng không đi quá đường rẽ vào Hồ chứa nước.

Sau chưa đầy hai giờ đồng hồ chạy xe từ Portland, Brolin nhận ra con đường đất dẫn sâu vào rừng.

Đi thêm ba kilômet, con đường chia làm hai ngả. Một tấm biển đề “Hồ chứa nước Bull Run”, Brolin rẽ sang ngả đối diện.

Đi với tốc độ đều đều, anh mở cửa kính xe với hy vọng không khí trong lành sẽ thổi vào anh chút dũng cảm thần bí nào đó. Thỉnh thoảng, anh nghe thấy tiếng kêu của một con chim săn mồi, hay tiếng chim hót líu lo. Nhưng không hề có dấu vết con người.

Đêm ở đây hẳn là rất rùng rợn.

Cuối cùng, dưới bóng một cây thông cao, hiện ra “nhà” của gia đình Beaumont. Hai chiếc xe moóc rất lớn được ghép thêm nhiều căn phòng làm từ thân cây giống như những ngôi nhà gỗ cũ kỹ. Vài tấm tôn lượn sóng dài ghép thành mái của khu nhà kỳ dị này và tạo thành mái che bên trên thảm lá kim. Khoảng nửa tá vỏ xe cũ đủ loại đã chết hẳn dưới những vết gỉ dài màu nâu.

Brolin đỗ chiếc Mustang cách đó khoảng chục mét và bấm còi để thông báo.

“Mong sao ông ta ở nhà, anh nghĩ. Mình chẳng muốn quay lại đây tí nào”.

Anh lại gần nơi được coi là nhà ở. Một lũ gà mái yên trí cục ta cục tác sau một hàng rào tự tạo bằng lưới sắt rẻ tiền.

- Này! Có ai ở đây không?

Một con chim vỗ cánh bay đi.

Các ô cửa sổ đen ngòm và hẹp như mắt người chết.

Brolin đi thăm dò xung quanh, nhưng cơn mưa mới đây đã khiến cát trở nên mềm nhão, khó đi lại. Ở bên phải, cách đó vài mét trong rừng, Brolin nhận thấy có sự chuyển động.

Anh im lặng tiến lại gần, một tay đặt lên khẩu Glock để yên tâm hơn.

Một cái bóng di chuyển chầm chậm sau đám cành cây.

Brolin gạt đám lá cây ẩm ướt.

Đằng kia có một cái xác treo lủng lẳng trong gió, rỉ máu, phơi bày da thịt, bị chặt thành nhiều mảnh.

Brolin nhảy lùi về phía sau và rút súng ra.

Không, không, không! Không phải người.

Anh lắc đầu. Đấy là một con thú dùng chân bám vào dây cáp.

Milton là con người của thiên nhiên, có lẽ ông ta đi săn không giấy phép và ăn những thứ mà ông ta tự kiếm được.

Tim đập nhanh, Brolin quay lại chỗ các xe moóc.

- Ông Milton Beaumont?

Brolin gọi tên chủ nhà nhiều lần. Không có tiếng đáp lại.

Anh lại gần cửa ra vào. Rất nhiều vỏ đồ hộp han gỉ nằm trong cát, đựng đầy nước mưa. Dưới mái tôn, Brolin chui qua đống quần áo đang phơi trên một loạt dây.

- Này! Có ai không?

Anh bước lên một viên đá dùng làm bậc thang và gõ vào cánh cửa nặng nề đã được gia cố thêm. Không ai trả lời.

Gió thổi tung một tấm bạt màu xanh phủ lên chùm bi đông bằng thép treo giữa hai vỏ ôtô.

“Nơi này thật kỳ quái! Loại người nào có thể sống được ở một nơi lộn xộn đến thế?”

Viên thanh tra trẻ quay ra, đi vòng quanh ngôi nhà từ bên phải rồi đứng lại dưới một ô cửa sổ. Bụi bẩn che phủ toàn bộ khung cửa, giấu không gian bên trong dưới một lớp màn màu tro. Anh dán mắt vào cửa kính.

- Tôi có thể giúp gì cho anh? Một giọng nói vang lên sau lưng anh.

Brolin quay ngoắt lại. Milton Beaumont đứng ở bìa rừng. Đó là một ông già nhỏ thó, đầy xương xẩu và nếp nhăn. Hai gò má nhô cao tới mức tưởng như mỗi khi ông ta cười, xương sọ sẽ xé rách chút ít thịt còn lại.

Mái tóc đen nhánh của ông ta xõa xuống trước hai hốc mắt. Vẻ mặt hăm dọa của loài thú ăn mồi toát lên khi ông ta hung hăng nhắc lại.

- Tôi hỏi liệu tôi có thể giúp gì cho anh?

- Vâng, tôi rất tiếc, tôi không muốn thô lỗ như thế, nhưng không ai trả lời cả. Tôi là…

Anh ngần ngại. Có lẽ Milton hơi ngây ngô, nhưng hoàn toàn có thể nhớ được tên của kẻ đã giết chết con trai mình.

- Tôi là thanh tra Joshua Brolin, cuối cùng, anh quyết định nói thẳng.

- Anh muốn gì ở tôi? Tôi chả có gì để nói với mấy tay cớm cả.

Giọng ông ta mạch lạc, không chút do dự, rít lên ở vài phụ âm.

- Tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu. Chúng ta vào nhà được chứ? Brolin vừa hỏi vừa chỉ tay vào chiếc xe moóc.

Milton đứng thẳng dậy, dường như ông ta không đến nỗi thấp bé lắm. Đây là lần thứ ba hai người gặp nhau, nhưng nếu còn nhớ Brolin, ông ta cũng không để lộ chút dấu hiệu nào cả.

- Tôi đã nói với mấy tay cớm rồi và chả còn gì để nói nữa cả. Họ đã lấy đi con trai của tôi, như thế là quá đủ rồi!

Ngực Brolin nén chặt lại.

- Tôi hiểu… Tôi muốn…

- Anh cóc hiểu gì cả! Chỉ vì chúng tôi ở đây nên người ta không thích chúng tôi, nhưng thằng bé nhà tôi chưa bao giờ làm điều gì xấu xa hết!

Brolin chầm chậm lắc đầu.

- Có lẽ chúng ta có thể nói chuyện bình tĩnh hơn.

Cặp mắt sắc của Milton lóe sáng trong một giây. Ẩn trong hốc mắt sâu, hai con ngươi rất hiếm khi lộ ra. Milton Beaumont giấu kỹ ánh phản chiếu tâm hồn mình với mọi người.

Ông ta quay đi và biến mất trước ngôi nhà. Brolin đi theo. Milton lấy từ dưới xe moóc ra hai chiếc ghế gấp. Ông ta mở ghế và đặt dưới mái hiên. Mặt đối mặt.

Khó mà biết được liệu có phải Milton đang quan sát anh hay ông ta đang nhìn đi đâu, vì thế Brolin quyết định ngồi xuống. Milton đi lùi ra và mở hàng rào chuồng gà, rồi bằng một động tác rất nhanh và tự tin, ông ta tóm lấy một con gà mái lông đen. Ông ta kẹp nó dưới nách rồi đến ngồi xuống ghế

- Này ông, tôi… Tôi không định ở đây lâu. Ông có theo dõi tin tức không?

Đầu Milton lắc lư trên cái cổ xương xẩu, rồi ông ta khạc. Khi lại đối diện với Brolin, ông ta hất cằm lên, vẻ thách thức viên thanh tra. Với bộ da được thuộc trong sương gió qua hàng thập kỷ cuộc đời, khuôn mặt dài, rất dài, khiến cho cằm trễ thấp bất bình thường xuống tận ngực, người đàn ông già nua này giống như một pho tượng nhân sư hung dữ vừa được tước đi những đường gờ.

Ông ta bao nhiêu tuổi nhỉ?

Mặc dù trời mát mẻ, Milton vẫn mặc một bộ đồ lao động với sơ mi tay xắn gần đến nách, để lộ các cơ bắp nhăn nheo nhưng dấu vết săn chắc một thời vẫn còn hiện rõ. Con gà mái nằm yên, một bàn tay rắn rỏi vuốt ve mào của nó. Khó mà đoán được nó đang khiếp đảm hay đang thỏa mãn.

Hay là mình nhầm? Hay là kẻ giết người không còn trẻ? Có lẽ Milton Beaumont có đủ sức khỏe cần thiết, ông ta khá ngây ngô để có thể bị điều khiển và hành động như một kẻ thần kinh không ổn định. Gần như rối loạn tâm thần, nhưng tuổi đời vẫn giúp ông ta kiểm soát được những hành động tối thiểu…

Nhưng không phù hợp. Làm thế nào ông ta có thể giữ được quá nhiều xung năng phá hủy trong thời gian lâu như vậy? Milton có con, có vợ, còn kẻ giết người lại thể hiện tình trạng chưa trưởng thành về mặt tình dục.

- Báo chí là để cho người ta biết phải nghĩ gì. Tôi ít xem ti vi, ít lắm.

Nhận xét quả là đúng, Brolin nghĩ. Trước một kẻ đầu óc chậm chạp, Milton hoàn toàn có thể tỏ ra nhanh nhạy. Suốt một thời gian dài, người ta tự hỏi làm thế nào mà một người đầu óc hạn chế như ông ta lại có thể sinh ra một kẻ đầy năng lực như Leland. Thực ra, có lẽ Milton không phải là lão già ngớ ngẩn như người ta vẫn nghĩ, đằng sau vẻ chất phác hoang dã ẩn giấu một cái nhìn sắc sảo về thế giới.

- Ông có nghe nói về hai vụ giết người phụ nữ thời gian gần đây không? Brolin hỏi.

- Anh nghĩ gì thế? Hiện người ta đang nói về con trai tôi. Có cả một nhà báo đến tận đây đặt câu hỏi cho tôi. Anh ta đến rồi lại đi. Chẳng được gì cả.

Gió làm cây rừng rung mạnh xung quanh họ.

- Vậy thì chắc chắn ông biết chuyện kẻ giết người hành động theo cách của… cách của Đao phủ Portland?

Cho dù tàn nhẫn, nhưng tên gọi này giúp Brolin không nêu đích danh Leland Beaumont, điều mà Brolin mong muốn khi anh vẫn chưa biết chắc về phản ứng của ông bố.

- Họ nói là có một gã bắt chước Leland. Nhưng Leland bây giờ đã chết rồi, làm ơn để nó được yên!

Brolin không thể đi thẳng vào mục đích. Nếu anh nói về chuyện ADN, chắc chắn ông ta không hiểu gì cả, việc đó chỉ làm rộng thêm hố ngăn cách giữa họ.

- Thưa ông Beaumont, con trai ông đã được chôn cất ở nghĩa trang Latourell, đúng không?

Milton chỉa hai tia nhìn đen ngòm vào Brolin. Ông ta thôi không vuốt mào gà nữa và gật đầu.

- Xin thứ lỗi cho tôi vì lời nói thẳng, nhưng ông có quyền được biết tin này. Xác của Leland đã bị đánh cắp.

Hai vết nứt đột ngột mở choàng, để lộ ra hai nhãn cầu màu trắng, đỏ và xanh lam. Cũng nhanh như khi hiện ra dưới ánh sáng, chúng lại trở về với các hốc tối tăm của mình.

- Sao? Con người sống ẩn dật kêu lên. Đồ điên nào…

Nhưng lời nói câm bặt trong miệng ông ta. Ông ta cúi xuống tay vịn ghế, khiến con gà đang run rẩy dưới nách ông ta kêu lên ầm ĩ. Ông ta rút từ đống củi nhỏ ra một vật dài màu bạc.

Brolin chưa hiểu ngay chuyện gì sắp diễn ra. Anh xác định được vật đó khi cái lưỡi bằng kền của nó chạm vào một tia nắng hiếm hoi.

Chiếc rìu xé toang không khí tạo nên một tiếng rít khô khốc.

Đã quá muộn.

Milton vứt thứ đang cầm ở tay kia ra.

Con gà mái giãy giụa như bị một cơn cười điên dại, coi chuyện vừa xảy ra như một trò đùa ác ý. Brolin thấy nó giật giật khi tia máu còn nóng của nó phun vào không khí, tạo ra âm thanh giống như khi người ta bóp một chai nước rửa bát đã hết.

Mặc dù đầu dúi trong cát, nhưng thân gà vẫn còn chạy, như để thoát khỏi cơn ác mộng này. Khi quá nhiều máu chảy ra từ vết cắt há miệng, con gà đổ vật xuống mềm nhũn.

- Thưa anh cảnh sát, nếu anh đến để báo cho tôi biết tin này, thì anh có thể rút lui được rồi, còn nếu anh đến để tống cổ tôi vào tù thì cứ việc, vì tôi chả còn gì để nói cả!

- Thế này, có thể…

- Im đi! Bắt tôi hoặc là xéo ngay!

Brolin nhìn vết máu chảy trên ghế. Ở đây tách biệt hẳn với thế giới văn minh, và nếu Milton lên cơn điên, không ai có thể cứu được anh. Mắt anh dừng lại trên chiếc rìu mà ông ta vẫn đang cầm trên tay. Hầu như không còn dính máu.

- Vâng, tôi đi đây.

Anh đứng dậy, quan sát phản ứng của người đối diện. Ông ta chỉ nhìn anh, không thể hiện bất cứ cảm xúc nào.

- Tuy nhiên, tôi muốn ông làm một việc, vì ông. Tôi có thể lấy mẫu nước bọt của ông được không?

Milton cúi đầu. Gò má bên phải giật giật vì một cơn máy cơ thần kinh.

- Anh dùng nó để làm gì?

- Để so sánh gien. Nó giống như dấu vân tay, nhưng thay vì dùng ngón tay, người ta dùng nước bọt hoặc máu. Nếu ông đồng ý, chúng tôi sẽ so sánh với mẫu gien của kẻ giết người, và như vậy ông sẽ được tuyên bố vô tội. Nhưng tôi phải thông báo với ông rằng ông không buộc phải làm thế, tôi yêu cầu ông với tư cách cá nhân, ông hoàn toàn không bị buộc phải chấp nhận.

Brolin không chắc rằng ông ta hiểu hết được những lời này. Anh đang định ra về thì Milton gật đầu.

- Anh muốn gì? Muốn tôi nhổ vào ống tiêm chứ gì?

Trong không khí nặng nề khi ấy, nụ cười trên môi Brolin được đón nhận như một sự giải thoát thực sự.

- Không cần như thế. Đã có phương pháp mới hơn. Đợi một chút, tôi sẽ cho ông xem.

Anh đi lấy chiếc cặp nhựa trong xe Mustang và lôi từ cặp ra đôi găng tay cao su. Anh yêu cầu Milton nhổ một ít nước bọt vào trong một chiếc khăn trắng tinh rồi lấy thứ mà anh cần bằng vài que bông nhỏ.

Khi đã vào trong xe, anh thấy Milton nhặt xác con gà mái. Một cơn rùng mình mạnh khiến Brolin run người khi anh chợt nhận ra rằng đó có lẽ là một con gà trống chứ không phải gà mái. Ẩn dụ quá rõ ràng.

Milton không đủ khả năng tinh tế đến thế.

Nhưng ai bảo vậy chứ? Ngây ngô không có nghĩa là không đủ khả năng thể hiện suy nghĩ của mình bằng hành động.

Con người sống ẩn dật đó đứng dậy, tay cầm cái xác ấm nóng. Ông ta nhìn chiếc Mustang chằm chằm.

Tiếng máy rền vang dưới ngọn cây. Brolin thấy bố Leland đứng bất động giữa đường và dần dần biến mất trong gương chiếu hậu. Và một suy nghĩ không thôi ám ảnh Brolin suốt chặng đường về.

Ông ta biết.

Milton biết chính xác trước mặt ông ta là kẻ đã giết chết con trai của ông ta.
 

hoahongden12

Active Member

Ba mươi sáu giờ.

Đó là toàn bộ khoảng thời gian mà Juliette có thể chịu đựng được. Chỉ mới không gặp Joshua từ sáng hôm qua mà cô cảm thấy nỗi nhớ ngấm ngầm nhen lên trong cô. Chẳng lẽ người ta không thể đem lòng yêu ai đó qua hai ngày được sao? Không, cô không thôi nhắc đi nhắc lại với mình như vậy, đây không phải là tình yêu, mà chỉ là sự quý mến. Chỉ mong muốn được gặp lại nhau càng sớm càng tốt để tìm hiểu nhau, đem lại niềm vui cho nhau và ôm chặt lấy nhau.

Và gọi nó như thế nào nhỉ?

Sự quý mến?

Từ khi thức dậy đến giờ, cô chỉ nghĩ đến điều này, giờ đây, cô xua đuổi những ý nghĩ ấy bằng một cái tát trong tâm thức để thay thế chúng bằng một sức nặng khác đang đè trên ngực cô.

Leland Beaumont.

Tên quái vật đó thế nào rồi? Joshua đã nói thật với cô về mẫu DNA. Ý nghĩ anh đứng giữa nghĩa trang để đào xác của Leland khiến Juliette mãi rất khuya mới ngủ đuợc, cô vô vọng tìm kiếm Joshua giữa những chiếc gối to trên giường.

Cả buổi sáng, Juliette chỉ chực chờ điện thoại của Joshua. Chỉ đến cuối buổi chiều anh mới gọi đến, giọng uể oải lộ rõ vẻ mệt mỏi và thiếu tự tin. Anh không muốn nói gì cả, nhưng Juliette biết có chuyện không ổn. Cô hỏi xem có phải liên quan đến Leland và ngôi mộ của hắn không, nhưng anh không trả lời, chỉ nói rằng sẽ qua ăn tối với cô.

Giờ đây, Juliette cố xua đi chút cảm giác cô đơn ở nhà Camelia vì cô biết mình sẽ được chăm chút nếu hé lộ chuyện tình cảm với anh thanh tra trẻ.

Sáu giờ rưỡi tối, đêm đã bao phủ hết bầu trời bằng cái mũ chụp tối đen của nó.

Phía ngoài cửa kính của biệt thự trên đỉnh đồi West Hills, Portland sáng rực, đẹp như một cây thông Noel trong truyện của Dickens.

- Chị ngạc nhiên vì bố mẹ em không về động viên em, không giống với họ tí nào, Camelia vừa nhận xét vừa cắn một miếng táo thật to.

Co người trên chiếc sofa, Juliette ôm chặt hai đầu gối sát vào ngực. Cô nhún vai.

- Thật ra, em chưa nói hết với bố mẹ. Chị biết bố mẹ em thế nào rồi đấy, năm ngoái bố mẹ đã rất đau khổ. Em không muốn họ lại phải chịu đựng điều đó.

- Chị biết là em thích cô đơn, em yêu quý ạ, nhưng bố mẹ em có thể đem lại cho ngôi nhà của em sức sống và niềm vui, những thứ em đang thiếu thốn. Em không nên sống quá... quá thu mình như thế.

- Thôi, đừng nói nữa, chị biết em bận rộn thế nào...

Camelia lắc đầu.

- Thế còn với thanh tra Brolin? Chuyện ra sao rồi?

Camelia nhấn mạnh vai trò của Brolin, cố ý nhấn mạnh từng từ một cách tinh quái.

- Tốt. Em nghĩ thế.

- Thế thôi ư? Chị đã nói chuyện điện thoại với Anthony Desaux, anh ấy nói là theo người quản gia thì hai người ra về rất muộn, cả hai chỉ nghiên cứu ở đó thôi sao?

Lông mày nhướn cao, một nụ cười nhếch lên ở khóe miệng, Camelia không đặt câu hỏi, cô chờ đợi lời khẳng định và các chi tiết.

Tiếng rên rỉ, mồ hôi chảy trên cơ thể, sức nóng của sự đam mê, tất cả hiện về trong tâm trí Juliette, từng đoạn ngọt ngào. Những cuốn sách cổ mở ra trong ký ức của cô với vô vàn tiếc nuối, và sự say sưa nhường chỗ cho nỗi khó chịu. Juliette lên tiếng đáp lại, cô hiểu rằng Camelia đang quan sát từng dấu hiệu thú nhận nhỏ nhất của cô.

- Nói gì thế! Cô đáp. Bọn em đã tìm thấy thứ cần tìm, và thứ đó khiến người ta lạnh xương sống...

- Đừng kể chuyện vớ vẩn nữa, nhất là với chị. Anh ấy thế nào?

Juliette cảm thấy ngượng ngùng hơn là khó chịu.

- Nhẹ nhàng, đó là từ duy nhất thoát ra khỏi đôi môi mím chặt của cô.

- Thấy chưa! Nếu nghe lời chị thì em đã không đánh mất biết bao nhiêu thời gian! Chị đã có lúc nói với em là phải tấn công, nhưng em có nghe chị đâu! Tốt rồi, hai người gặp lại nhau chưa?

- Tối nay.

- Tối nay ư? Thế mà em còn ngồi đó với bà cô Camelia này sao? Em nên tắm rửa, chọn đồ để mặc, sấy tóc, xịt một chút nước hoa dưới lớp ga giường, Camelia nói thêm, cố tình nhếch môi lên.

- Em không biết. Em cứ để mọi thứ tự nhiên, không che giấu những gì thực chất của mình, không gian dối.

Camelia bật dậy khỏi chiếc ghế bành cô đang ngồi.

- Em cổ lỗ quá đấy! Sạch sẽ và thơm tho, đó không phải là gian dối, mà là để thể hiện hết sức quyến rũ, quần áo là để tăng thêm giá trị của cái đang tồn tại, chứ không phải để che giấu khiếm khuyết, mặc dù... Với em thì chẳng có vấn đề gì. Hãy làm cho mình xinh tươi hơn, em rất hấp dẫn, em sẽ trở nên quyến rũ không thể cưỡng lại được!

Sự hào hứng của người bạn gái thân nhất hơn mình gần chục tuổi khiến Juliette rất thích thú. Cô mới hai mươi tư tuổi, lẽ ra cô phải hăng hái nói chuyện này, thế mà chính cô bạn đã ly hôn lại dạy cô bài học về sự quyến rũ.

- Không nói đến chuyện sống cùng nhau mười năm, Juliette ạ, nhưng phải luôn hấp dẫn để anh ấy không thể cưỡng lại được. Em chưa bao giờ đi ăn tối cùng một anh bạn mới toanh và thể hiện hết các điểm mạnh của mình, khiến anh ta nóng lòng vì ham muốn suốt bữa ăn, trong khi em cứ đủng đỉnh một cách quá đáng đúng không? Hãy nghe chị, không có gì giá trị hơn thú vui được nhìn thấy anh ta phải kiềm chế, được thấy sức ép tăng lên, được đùa giỡn với anh ta cho tới khi cảm thấy anh ta run lên vì ham muốn. Sau này, em sẽ không bao giờ có được một đêm đặc biệt như thế, hãy tin bà bạn phù thủy này nhé!.

Khuôn mặt Juliette trở nên vui vẻ.

- Em không biết đó có đúng là thứ mà em muốn...

- Hãy xử sự như một cô gái ở tuổi em! Như một người phụ nữ! Rõ ràng đây là điều mà em cần, em chỉ không muốn nhìn thẳng vào sự thật thôi. Em muốn biết ý kiến của chị ư? Chị nghĩ rằng em đang chạy trốn hạnh phúc vì em có cảm giác rằng vui vẻ vào lúc này là không đúng.

- Chị Camelia, một số phụ nữ có nguy cơ bị giết vào lúc này! Và kẻ giết người có thể là... có thể là một trong số bạn bè của Leland Beaumount, em nghĩ điều này cho em lý do để lo lắng.

- Và để em bỏ mặc cuộc sống của mình sao? Mỗi phút trôi qua đều có những phụ nữ bị hãm hiếp, những đứa trẻ bị tàn sát, em phản ứng thế nào đây? Suy sụp tinh thần ư? Đôi khi, nên ích kỷ một chút, đó chính là chìa khóa của niềm vui.

- Em không biết...

Camelia lại gần cô bạn gái.

- Juliette, cô nói bằng giọng dịu dàng hơn và đặt tay lên má Juliette. Chị không muốn thấy em phí phạm cuộc đời vì kẻ điên đó. Cách đây mấy tháng, chính em đã nói: ”Em không muốn kẻ đó tiếp tục hủy hoại em.” Nhưng hôm nay nghe em nói, chị không có cảm tưởng rằng nỗi đau đã qua đi. Hít một hơi thật sâu, vứt bỏ các bóng ma cũ và hãy vui sống. Chúc em hạnh phúc.

Juliette áp đầu vào vai Camelia.

- Cứ như là một màn quảng cáo cho giáo phái scientology ấy, cô thì thầm.

- Đồ ngốc!

Vài phút sau, Juliette đẩy cánh cửa ra vào rồi đi về Shenadoah Terrace để chỉnh trang bản thân và chuẩn bị tiếp đón Brolin.

***

Camelia tắt điện bếp và cuộn tròn trong chăn trước tivi. Ngón tay cô lướt trên các nút bấm cho tới khi cô phát mệt vì màn hình. Cô đi đi lại lại trong phòng khách, lưỡng lự không biết có nên nhóm lò sưởi không.

Tội nghiệp Juliette, cô nghĩ. Một cô gái đặc biệt như vậy mà có thể sống phần còn lại của cuộc đời một mình vì không tìm được người xứng tầm! Thế thì còn gì là công bằng trên đời nữa? Tại sao một số người sinh ra đã xinh đẹp và thông mình, còn những người khác thì không?

Ý nghĩ về sự bình đẳng tuyệt đối luôn lôi cuốn Camelia. Có thể một người được sinh ra với vô vàn phẩm chất tốt đẹp, nhưng rồi sớm hay muộn, thiên nhiên cũng sẽ lập lại công bằng bằng cách đặt trên đuờng đi của người đó một chướng ngại vật khó vượt qua. Ví dụ như không thể có con, hay sống độc thân phần lớn cuộc đời, hay mắc bệnh nan y khi còn khá trẻ... Người ta không thể có toàn lợi thế mà không phải trả giá, như thế là không thể chấp nhận được đối với những người khác. Thiên nhiên đưa ra quá nhiều tiểu tiết, sự hoàn hảo và tính toán để không thể không bận tâm đến điều này. Nó sẽ không sinh ra những con người quá hoàn hảo để họ bị những người kém may mắn hơn sỉ vả nếu người ta không ngầm hiểu rằng tất cả sẽ tự cân bằng vào một lúc nào đó.

Và Juliette sẽ không thoát khỏi quy luật này.

Suy nghĩ của Camelia vấp phải bìa của một cuốn sách phủ đầy bụi trên tủ bát đĩa.

Cuộc mưu phản của những kẻ ngu xuẩn của John Kennedy Toole.

Juliette đã tặng cô cuốn sách này và tin rằng cô sẽ thay đổi sau khi đọc nó. Tác giả đã viết cuốn sách với tất cả đam mê của nhà văn, và ông ấy tự sát khi biết rằng bản thảo của mình bị từ chối ở khắp nơi. Sau này, khi mẹ ông thuyết phục được một nhà xuất bản đọc nó, tác phẩm đã thành công vang dội và nhận được giải Pulitzer.

Số mệnh thật trớ trêu.

Giống như sự cân bằng tự nhiên.

Camelia tự hứa sẽ dành cả buổi tối để đọc cuốn sách và đi lên phòng tắm để tắm thật khoan khoái trước khi vào giường. Tắm trong hơi nước nóng thư giãn, trút bỏ mọi ưu phiền.

***

Juliette trải một chiếc khăn rộng màu xanh thẫm lên mặt bàn trong phòng khách. Sau khi suy nghĩ chín chắn, cô quyết định không gọi pizza hay món ăn Tàu đến nhà mà sẽ tự nấu nướng. Cô mất mười phút để tìm hai cái giá nến mà trước kia mẹ cô thường đặt trên lò sưởi và cuối cùng đã tìm thấy chúng dưới gầm một chiếc tủ. Cô kiểm tra lại lượng đồ ăn đủ để chuẩn bị một bữa ra trò cho hai người và đặt những thứ cần thiết lên mặt bàn soạn trong bếp.

Joshua sẽ tới trong vòng một giờ nữa, cô chạy nhanh lên gác chọn bộ đồ chỉnh tề nhưng vẫn quyến rũ. Cô định đi vào phòng tắm, nhưng bỗng thay đổi ý kiến và mở ngăn kéo đựng đồ lót. Về phần này cũng vậy, tốt hơn hết là không nên coi thường, một khi đã chăm lo đến vẻ bề ngoài, thì phải làm cho đến nơi đến chốn. Cô chọn một bộ màu đen không diêm dúa nhưng đường cắt khá sâu.

Cô đẩy cửa nhà tắm, nhanh chóng trút bỏ quần áo để đứng dưới vòi nước nóng.

***

Khu phố không đến nỗi vắng vẻ, ngược lại là khác. Nhưng các ngôi nhà đều rất rộng, có vườn bao quanh tách biệt nhà này với nhà khác. Cuộc sống chỉ quanh quẩn trong ánh sáng của tầng trệt các ngôi nhà, không có người qua lại.

Tốt lắm.

Hắn mở cửa xe bước ra và chỉnh lại cái mũ lính thủy đội trên đầu. Hắn rất thích cái mũ này, đây là một thứ đẹp đẽ mà hắn tìm được.

Hắn đi bộ trên vỉa hè, hai tay đút túi, ngắm nhìn cảnh thành phố sáng đèn ở xa xa, dưới chân đồi. Vừa đẹp vừa gớm ghiếc. Hằng hà sa số những vì sao trên mặt đất lấp lánh màu sắc sặc sỡ, nhưng quan trọng hơn là thứ gắn liền với nó: xã hội. Tất cả những con người sống trong mớ bòng bong của công việc, đời sống xã hội, của cái thiện và cái ác ấy. Họ biết gì về cái thiện và cái ác? Họ là ai mà có quyền biến cái thiện và cái ác thành những điều luật tất yếu? Họ là Thuợng đế chăng?

Không, nhưng họ thích tin vào điều đó. Hoặc thích trở thành như thế.

Người ta thường nói với hắn rằng “với mong muốn thay thế hình ảnh mờ nhạt và đang lung lay của Thượng đế, con người đã tạo ra tiến bộ khoa học. Khoa học là công cụ của con người để trở thành Thượng đế”.

Hiển nhiên là gã đàn ông đang bước đi trên vỉa hè trong đêm tối kia không có những suy nghĩ đó, không phải bằng những từ ngữ ấy. Hắn cố gắng thực hiện các suy nghĩ đó một cách đầy đủ nhất, khẳng định chúng và nhận xét chúng bằng từ ngữ của riêng mình, nhưng không thể rút ra được khái niệm. Vì thế sự điên dại của hắn lại càng tăng gấp bội.

Đằng xa, có tiếng chó sủa rồi im bặt ngay sau tiếng quát của người chủ. Gã đàn ông đội mũ lính thủy đứng yên một lát đủ để biết chắc rằng không ai có thể nhìn thấy mình. Không được có nhân chứng, Người ta đã nói với hắn như thế, điều này đóng vai trò cốt yếu với đoạn tiếp theo của nghi thức.

Hắn đi xuống phố khoảng một trăm mét và ngắm nhìn ngôi nhà rất to mà hắn đang tìm kiếm. Nhà rộng mênh mông, với những ô cửa sổ cao và rộng. Hẳn là ban ngày, có rất nhiều ánh mặt trời chiếu vào trong nhà.

Mọi thứ đều tối đen, trừ một ô cửa sổ nhỏ ở tầng hai, chắc chắn là nhà tắm, từ đó toả ra một quầng sáng yếu ớt trong đêm.

Hắn đi qua rặng cây râm và vòng qua nhà bên cạnh. Như vậy, hắn sẽ vào nhà từ cửa sau, tránh bị nhìn thấy.

Hắn đeo găng tay, rất quan trọng đấy! Người ta đã dạy hắn như thế. Găng tay giúp không bị nhiễm năng lượng âm khi hắn giải thoát linh hồn. Nhưng hắn thấy khó chịu khi không bỏ găng được một lát để chạm vào làn da đó, trong cả hai lần làm việc của hắn. Hắn từng định vuốt ve làn da đó, ít nhất là để thử bằng ngón tay xem bề mặt của nó thế nào. Nhưng rất nguy hiểm, tất cả có thể đổ bể nếu hắn làm như vậy.

Hắn đi dọc sườn trái của ngôi nhà rộng lớn, và như Người ta nói với hắn, hắn thấy một chiếc hộp kim loại nhỏ với sợi dây giày treo ở vách nhà. Lưỡi dao của hắn sáng loáng dưới ánh trăng thoáng qua, giống như một nhũ thạch bằng nước dá, và hắn cắt phăng sợi dây cáp. Không còn điện thoại nữa.

Cửa sau khóa chặt. Người ta không muốn có hắn ở đây. Hắn nghiến răng, nhưng cơn điên dại không hề dịu bớt.

Cửa sổ bếp nhanh chóng bị phủ một lớp băng dính nâu to bản, và khi cán dao của hắn đập vỡ lớp kính, không một tiếng động nào phát ra.

Hắn vào bếp. Lớp da của găng tay hắn vuốt ve những tấm ảnh gắn trên cánh cửa tủ lạnh. Hắn hít thật sâu.

Từ hệ thống ống nước của ngôi nhà vọng ra tiếng nước nóng bơm lên cao do áp suất.

Trên tầng, nước trong nhà tắm chảy trong đám hơi nước mù mịt, một phụ nữ vừa tắm vừa hát.

Cô không nghe thấy tiếng sàn gỗ kêu cọt kẹt, cũng không nghe thấy tiếng buớc chân từ từ leo lên các bậc thang.

Trong đêm khuya, hắn đặt tay lên bộ ngực mềm nhô về phía hắn. Làn da thật mềm, nhưng găng tay không cho phép hắn cảm nhận trực tiếp. Lại một lần nữa, hắn thèm rút một bên găng ra, vừa đủ thời gian để chạm vào bộ ngực đó, sờ nắn một chút, nắm nó trong lòng bàn tay của hắn.

Hắn nhìn lên và thấy khuôn mặt co dúm vì kinh hoàng và đang hấp hối, rồi cái trán bị bỏng vì hắn dùng axit để xóa hình ngôi sao năm cánh. Bí mật của hắn. Bí mật của chúng.

Hắn thấy trước mặt không phải là một phụ nữ, mà là một đồ vật. Một đồ vật không sự sống. Người phụ nữ này bị ham muốn mạnh mẽ của hắn biến thành đồ vật, cô là công cụ cho ảo ảnh của hắn, giống như một thứ đồ chơi mà người ta giấu kỹ để được hưởng thụ trọn vẹn, chỉ một lần duy nhất.

Hắn không cảm nhận được trái tim đang thoi thóp, hay những cơn co giật thần kinh của các cơ. Không. Chỉ có dấu hiệu mà hắn đã khắc lên trán là có ý nghĩa với hắn. Từ giờ trở đi, linh hồn không tồn tại nữa, chỉ còn lại lớp vỏ bọc da và thịt. Hắn muốn làm gì thì làm, cô gái là của hắn.

Đã thoát xác.

Chất thép lạnh của lưỡi dao lướt trên làn da trần trên đùi cô gái. Nó lướt dần lên trên, rất nhẹ nhàng và hắn cảm thấy bộ phận sinh dục của mình cương lên. Lưỡi dao mỏng cắt đi vài sợi lông mảnh như tơ trên cặp đùi láng bóng.

Một tiếng rên rất khẽ và thoảng qua phát ra từ cô gái nằm dưới nền nhà tắm. Hắn không hề để ý tới.

Hắn không thấy những giọt nước mắt chảy trên má cô khi con dao của hắn khiến cô rỉ máu.

Hắn chỉ cảm nhận đưọc niềm thích thú của riêng hắn.
 

hoahongden12

Active Member

Sáng thứ Ba đến sớm bất ngờ, Brolin ngồi ở bàn ăn trong bếp, uống nhiều ngụm to nước cam ép. Còn sớm, Juliette vẫn đang ngủ và anh không dám đánh thức cô dậy. Họ vừa có một đêm tuyệt vời, ăn bữa tối với những thứ còn lại từ một nỗ lực nấu nướng không mấy thành công, thưởng thức loại rượu vang California tuyệt hảo trước lò sưởi rồi biến mất cùng với tình yêu trong phòng ngủ.

Brolin khoác áo vest da rồi đi ra chỗ chiếc Mustang. Hai cảnh sát mặc thường phục vừa gác vừa gà gật trong xe của họ. Brolin chào nhanh rồi đi về hướng trụ sở cảnh sát trung tâm.

Anh vào phòng làm việc, vội vã kiểm tra tin nhắn, mail và fax. Không có gì trong số những thứ anh hy vọng.

Anh ngồi vào ghế bành và xoay người nhìn về phía chiếc bảng to, trên đó anh đã ghi tất cả các kết luận hay tóm tắt về mô tả tâm lý và nhân dạng của hung thủ cùng các yếu tố điều tra. Từ đó, ánh mắt anh lướt dọc theo các bức tường, xuống dưới sàn và dừng lại ở bộ trò chơi điện tử phủ đầy bụi. Cho tới trước thời gian gần đây, công việc của anh từng vừa là cuộc sống riêng tư, vừa là việc để kiếm sống. Khi không tham gia điều tra, anh có thể ở đây bấm điều khiển, mắt chăm chú hướng về màn hình chờ đợi một tình huống khẩn cấp mới. Ở nhà, anh cũng không có việc gì bận rộn cả. Cuộc sống như thế cuối cùng sẽ đưa anh tới chỗ trở thành một cảnh sát già cô đơn sống với chiếc ti vi và những ký ức vô liêm sỉ.

Giờ đây, đã có thêm Juliette. Juliette dịu dàng và xinh đẹp. Anh không biết liệu câu chuyện có tốt đẹp không nhưng nó đáng để thử. Anh muốn điều đó.

Chiếc cặp nhựa hiện ra trong tầm nhìn của anh khiến anh lại nghĩ tới mẫu nước bọt đang đặt ở một ngăn nhỏ trong tủ lạnh. Anh phải đưa nó cho Craig Nova hoặc Carl DiMestro để từ đó xác định gien. Nhưng giờ đây, khi đã gặp lại Milton Beaumont, Brolin không nghĩ rằng ông ta có thể gây tội lớn. Con người đó rất kỳ lạ, thậm chí nguy hại, nhưng từ đó đi đến chỗ giết phụ nữ ư? Ông ta đã có tuổi, và nhất là bị hạn chế về mặt trí tuệ. Vả lại, ông ta còn đồng ý cho thử nước bọt mà không gây khó dễ gì, trong khi ông ta không buộc phải làm thế.

Lúc nào có dịp, anh sẽ đưa mẫu cho Craig.

Tiếng kêu của máy fax kéo Brolin ra khỏi trạng thái nửa đờ đẫn.

Anh đứng phắt dậy và đọc luôn khi trang giấy còn chưa ra hết. Anh không tin nổi vào mắt mình. Bản fax được gửi đến từ văn phòng cảnh sát trưởng Beaverton, phía tây Portland.

"ĐÃ NHẬN DẠNG NẠN NHÂN TRONG RỪNG, KÈM THEO ĐÂY LÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐƯA RA NGÀY 8 THÁNG MƯỜI."

Tức là cách đây bốn ngày. Thế nhưng nạn nhân bị giết trong đêm 29 rạng sáng ngày 30 tháng chín, khoảng mười ngày trước đó. Brolin không kịp đợi mực khô, anh vội vã cầm lấy tờ giấy đầu tiên và đọc ngấu nghiến.

Hôm trước, Carl DiMestro đã gửi tới tất cả các cảnh sát trưởng của bang một bản fax và một e-mail đề nghị cung cấp thông tin liên quan đến "nạn nhân trong rừng", khuôn mặt nạn nhân đã được tái tạo một phần bằng silicon. Báo chí cũng nhận được một bản tương tự, một lời kêu gọi làm chứng kiểu như: "Nếu bạn biết cô gái này hoặc đã từng nhìn thấy cô gái này, hãy liên hệ với...."

Một cảnh sát Beaverton đã đọc được thông báo ngay khi nó được dán lên tường và liên tưởng tới tấm ảnh mà hai cô gái vừa mới cho anh xem.

Cô gái tên là Anita Pasieka, hai mươi sáu tuổi.

Những phút tiếp theo, Brolin biến thành cái máy: chạy, gọi điện, tập hợp thông tin. Khoảng chín giờ, Bentley Cotland đến gõ cửa hỏi xem có giúp được gì cho anh không, vì anh ta đến đây để học việc, thế là Brolin giao cho anh ta việc phân loại tài liệu, công việc không quá sức đối với một trợ lý chưởng lý tương lai.

Cuối buổi sáng, Brolin đề nghị Lloyd Meats và Salhindro đến gặp anh ở phòng làm việc. Bentley Cotland nhìn họ bước vào, một tay đặt trên chồng tài liệu đã phân loại, nét mặt lộ rõ vẻ tự hào. Brolin chăm chú nhìn Meats khi nhận thấy rằng phó phòng không còn bộ râu ngắn màu đen nữa.

- Lẽ nào cậu đã giảng hòa với lũ ma quỷ? Viên thanh tra trẻ ngạc nhiên hỏi. Đến mức không phải trốn sau tấm rèm bảo vệ nữa?

Giọng anh muốn tỏ ra thân mật và đùa vui, thực ra anh không chờ đợi câu trả lời, nhưng Meats cảm thấy mình có quyền bào chữa:

- Vợ tôi cứ kêu ca suốt từ mùa hè đòi tôi phải cắt nó đi. Thần kinh của tôi đã phải nhân nhượng!

- Chính vì thế mà tôi sống một mình! Salhindro thốt lên, tay vỗ vỗ vào chiếc bụng phệ.

Brolin đóng cửa lại.

- Thế này, chúng ta có tin mới. Nhưng trước tiên, cuộc điều tra về vụ đào mộ Leland Beaumont đến đâu rồi?

Meats thở dài, bẻ khớp tay răng rắc.

- Rất tiếc không tìm ra điều gì quan trọng. Cả ngày hôm qua, tôi đã hỏi tất cả các nhân viên làm việc ở nghĩa trang, tất cả những người làm việc ở đây từ năm ngoái, nhưng không ai khai báo được gì. Họ khẳng định rằng người ta có thể bí mật và vì một động cơ nào đó mà đào mộ lên và lấy xác ra, rồi lấp lại mà họ không hay biết, nhưng với điều kiện là mộ mới chôn, nếu không đất bị đào xới sẽ làm lộ vụ việc.

- Trừ khi bọn ăn cắp xác làm việc đó vào một đêm trời mưa, Bentley nhận xét.

- Chính xác, một người đào huyệt cũng nói với tôi như vậy, nhưng đào dưới trời mưa mất thời gian và công sức gấp đôi. Tôi biết một chuyện, anh định nói thêm khi nghĩ tới chuyện khai quật, nhưng lại thôi. - Và người ta không thể nghe thấy ai đang tới, kể từ người bảo vệ đi tuần tra trở đi. Thật là thuận lợi cho kẻ nào muốn hành động bí mật.

- Vậy thì có thể cho rằng ngôi mộ đã bị đào lên trong những tuần đầu tiên sau khi chôn cất, Brolin kết luận. Chúng đã lập kế hoạch từ lâu...

Anh nguệch ngoạc vội vài dòng vào cuốn sổ.

- Được, vậy anh có thể cho chúng tôi biết anh đã tìm thấy gì không? Meats đề nghị.

- Tôi chẳng làm được gì cả, đây là công lao của một cảnh sát trưởng trẻ có năng khiếu quan sát. Nạn nhân đầu tiên đã được nhận dạng.

Hai cảnh sát ngồi yên lặng.

"Sáng nay, Brolin nói tiếp, một người ở hạt Washington đã chính thức nhận ra khuôn mặt của nạn nhân thứ nhất trên một tấm ảnh được gửi tới tất cả các cảnh sát trưởng trong vùng. Chính phó cảnh sát trưởng Hazelwood đã nhận dạng được. Trước đó bốn ngày, vào thứ sáu ngày 8 tháng 10, có hai cô gái tới trình báo về việc Anita Pasieka, cô gái cùng thuê nhà với họ, mất tích. Hai cô này vừa đi Mexico về và ngạc nhiên vì đến tối mà không thấy Anita đâu. Họ chờ qua hai mươi tư tiếng rồi mới đi trình báo về sự vắng mặt bất thường của bạn mình. Hazelwood đã ghi lại lời khai của họ và nhận tấm ảnh Anita mà họ mang tới. Sau đó, không có thêm gì nữa. Cảnh sát đã liên lạc với gia đình Anita ở bang Illinois, nhưng cô không ở đó. Sáng nay, Hazelwood đi qua trước bảng tin và bỗng nhận ra khi nhìn thấy tấm ảnh mà chúng ta gửi qua mail. Đều là một người.”

- Ở đâu trong hạt? Salhindro hỏi.

- Ở Beaverton.

- Ngay cạnh đây thôi, ông nói. Gia đình đã được thông báo chưa?

Giọng Brolin trở nên trầm hơn.

- Bố mẹ cô ấy đã tới và đang ở chỗ cảnh sát trưởng Beaverton.

Họ chia sẻ nỗi đau với gia đình nạn nhân trong im lặng.

- Tôi đã thu thập nhanh tối đa thông tin về Anita Pasieka, Brolin nói tiếp; giọng khô khan hơn trước. Có lẽ phải mất một thời gian dài mới xác định được chính xác địa điểm và thời gian cô gái gặp kẻ sát nhân, quá nhiều thời gian đã trôi qua, tôi sợ là như vậy.

- Chúng ta có gì để đối chiếu không? Meats hỏi nhưng không mấy hy vọng.

Lloyd Meats làm cảnh sát hình sự từ khá lâu, đủ để có kiến thức tối thiểu về những kẻ giết người hàng loạt. Anh đã tham gia điều tra vụ Green River Killer với tư cách là một trong nhiều thanh tra nhận nhiệm vụ này hồi đó. Những kẻ giết người hàng loạt cực kỳ khó bị bắt chỉ đơn giản vì cách chọn nạn nhân của chúng. Chúng không bao giờ chọn một người quen biết để giết như phần lớn những kẻ giết người khác, mà chúng giết một cách ngẫu nhiên. Một phụ nữ qua đường quá giống với sự lý tưởng hóa ảo tưởng của chúng, và thế là trở thành một con mồi mới, không có bất cứ mối liên hệ nào với kẻ giết người. Thế nhưng cũng có kẻ giết người hàng loạt hành động theo một sơ đồ, một dữ liệu cụ thể và nhất quyết làm theo vì đó là một phần không thể thiếu trong ảo tưởng của hắn. Trong trường hợp đó, hắn có thể luôn luôn giết người ở cùng một kiểu địa điểm, hay chọn cùng một kiểu phụ nữ, hay giết người vào cùng một thời điểm trong ngày, để lại cho các điều tra viên một hướng để bám theo và lột mặt nạ của hắn. Đó là một cách đối chiếu, tìm một chi tiết nối các nạn nhân với nhau bằng cách này hay cách khác.

Brolin cầm lấy một tập bìa cáctông trong đống trước mặt Cotland.

- Đây chính là thứ mà tôi muốn cho các anh xem. Có một mối đối chiếu, và không hề tầm thường, Elizabeth Stinger, nạn nhân thứ hai, làm việc cho một công ty người mẫu hơi đặc biệt. Công ty này bán hàng qua bưu điện và nhằm vào đối tượng phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi, chủ yếu là phụ nữ làm nội trợ. Vì thế họ thực hiện một cuốn catalogue với các người mẫu thuộc mọi lứa tuổi, mọi vóc dáng, để thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, từ bà nội trợ năm mươi tuổi đến cô con gái của bà ta, hay người hàng xóm nằm giữa hai lứa tuổi đó. Elizabeth còn làm vài việc lặt vặt khác để kiếm sống, nhưng cô kiếm tiền chủ yếu nhờ vào hợp đồng làm người mẫu cả năm với công ty này. Và Anita Pasieka cũng làm công việc như thế ở cùng công ty này.

Salhindro rút từ túi ngực ra một bao thuốc lá.

- Mẹ kiếp... Ông vừa nói vừa đặt một điếu Newport vào giữa hai môi. Khó có thể là một sự trùng hợp.

Lloyd Meats chìa tay về phía Salhindro, ông đặt một điếu thuốc vào giữa hai ngón tay Meats. Mặc dù rất thèm, nhưng Brolin chỉ có thể hít những làn khói nicotin, và mong muốn sâu sắc được hít căng hai lá phổi những điếu thuốc chết người kia chợt xâm chiếm anh. Nếu ở bên họ quá lâu, thì hẳn cuối cùng anh cũng sẽ phải lùi bước. Đột nhiên, anh thấy hăng hái với ý nghĩ phải sớm tổ chức một cuộc họp quan trọng để thúc đẩy cuộc điều tra vì anh không chịu nổi mùi thuốc lá. Anh là loại người gì mà yếu đuối đến thế? Anh lấy lại tinh thần ngay lập tức và ý chí của anh lại trở nên vững chắc.

- Có nghi ngờ, nhưng đó thực sự là một điều ngẫu nhiên đặc biệt, anh đáp. Công ty này khá lớn, họ có khoảng một trăm nhân viên. Tôi đã gọi đến đó và sắp tới giờ hẹn gặp rồi.

- Hung thủ có thể là một trong số các nhân viên, anh có nghĩ thế không? Meats hỏi.

- Quan hệ gần gũi khá dễ xảy ra và có thể lý giải được. Hắn lựa chọn trong số những người mà ngày nào hắn cũng nhìn thấy. Hắn hoặc Quạ. Nhưng trí thông minh của Quạ cao hơn sự giản đơn đó nhiều, hắn biết sớm hay muộn chúng ta cũng sẽ đối chiếu. Nếu như hắn không bận tâm về điều ấy, thì đó là do hắn cho rằng chúng ta không thể mò ra hắn bằng hướng đi này, vì vậy rất ít khả năng hắn có mối quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp nói trên. Dù thế nào, cũng vẫn phải khai thác. Tôi chạy đi gặp người quản lý của Fairy's Wear, để biết thêm thông tin về các nạn nhân, sau đó tôi sẽ qua văn phòng của cảnh sát trưởng Beaverton để gặp gia đình Anita Pasieka.

Mặc dù nghề nghiệp của ông rất căng thẳng, nhưng Salhindro đã tự tạo cho mình một lớp vỏ ngoài giúp ông luôn tìm đuợc một chút hài hước - cho dù nhỏ nhất - trong những lúc khó khăn. Đây chính là cách của ông - cũng giống như rất nhiều cảnh sát ở khắp nơi trên thế giới - để tự giảm áp lực.

- Fairy's Wear (trang phục dành cho tiên nữ; nhưng fairy trong tiếng lóng còn có nghĩa là "kẻ loạn dâm" hoặc "kẻ đồng tính")? Nếu là anh, tôi sẽ dè chừng khi tới gặp người quản lý một nơi như thế!

Brolin không đứng dậy mà cúi người về phía Cotland.

- Anh đi cùng tôi không? Chúng ta sẽ bới tung lên để tìm kiếm mối liên hệ giữa Elizabeth Stinger và Anita Pasieka.

Bentley Cotland gật đầu mà không tin chắc lắm.

***

Philip Bennet quản lý công ty Fairy's Wear từ mười bảy năm nay. Ông chưa bao giờ thấy cảnh sát tới văn phòng mình. Ông luôn nộp đầy đủ tiền phạt, hoàn thành các nghĩa vụ công dân và không có lý do gì để lo lắng về bất cứ một động cơ bất hợp pháp nào. Khi thanh tra Brolin ở Phòng điều tra tội phạm tới gặp ông cùng với trợ lý chưởng lý, Philip biết ngay rằng chuyện đó không liên quan đến ông ít nhất là không trực tiếp. Họ đến vì chuyện của Elizabeth Stinger, và trống ngực ông lại đập mạnh liên hồi.

Với lượng cân dư thừa quá mức, ông khó chịu đựng được những cảm xúc mạnh, và càng khó chịu đựng hơn từ khi ông hút thuốc trở lại, điều vốn chẳng có lợi cho bệnh rối loạn nhịp tim của ông. Lòng tốt quá mức là điểm yếu nơi ông, sớm hay muộn nó cũng sẽ làm ông thua lỗ, đây chính là tình cảnh nước đôi của những người có lòng nhân từ trong xã hội tiêu thụ. Và tình cảnh ấy sắp tiến đến gần một cách vô cùng nhanh chóng khi viên thanh tra báo cho ông biết về cái chết của cô bé Pasieka.

Ông có nhiều nhân viên, nhưng ông nhớ được cô vì cô làm việc cho ông từ ba năm nay. Fairy's Wear đều đặn mời cô chụp ảnh, và bây giờ nghĩ lại, ông thấy cô không được gọi đã nhiều tuần nay. Kiểm tra lại kế hoạch, Philip khẳng định với viên thanh tra rằng cô phải làm việc vào thứ bảy tuần sau. Rất bình thường khi không một ai ở đây lo lắng vì không có tin tức gì của cô.

Anita Pasieka với những lọn tóc vàng.

Sao lại là cô ấy? Cô ấy rất tốt bụng, rất dễ thương.

Ba ngày trước, khi biết tin Elizabeth Stinger bị sát hại, Philip đã không nhắm mắt nổi suốt đêm. Ngay hôm sau, trong cả ngày Chủ Nhật, ông cố gắng liên lạc với gia đình Stinger, ông biết Elizabeth có một cô con gái nhỏ, và ông muốn chắc chắn rằng con bé được chăm sóc tốt.

Quả là một cú sốc khi biết tin hai nhân viên bị sát hại trong vòng chưa đầy một tuần.

Ngồi đối diện với ông, Brolin chìa cho ông tấm ảnh chụp một khuôn mặt có thể nói được tạc bằng nhựa đục và sơn màu thịt.

- Vâng, đúng là cô ấy, ông khẳng định. Nhưng khuôn mặt cô ấy... cứ như làm bằng nhựa tổng hợp trên tấm ảnh này...

- Ông Bennet, các nhân viên nữ của ông làm việc theo chế độ nào? Họ có hợp đồng cả năm hay chỉ được gọi theo vụ việc?

Vẫn còn bị sốc, Philip Bennet phải dùng khăn mùi soa lau trán để lấy lại minh mẫn.

- À... Những người là hạt nhân cứng có hợp đồng cả năm. Họ gồm ba mươi hai người. Họ làm mẫu cho catalogue của từng tháng, tham gia vài cuộc trình diễn trong các buổi dạ hội của các thành viên và có mặt trong hai cuốn catalogue hàng năm của chúng tôi. Ngoài ra còn có một số người mẫu được tuyển theo thời hạn, và khoảng năm chục người thỉnh thoảng được gọi làm việc, chủ yếu cho catalogue mùa hè và mùa đông.

- Anita Pasieka và Elizabeth Stinger có thuộc nhóm “hạt nhân” không?

Philip xác nhận, chiếc cằm nảy lên dưới tác động của cảm xúc.

- Vâng... Ồ họ còn làm những việc lặt vặt khác nữa, chúng tôi không thể đảm bảo cho họ cả một gia sản vì chỉ thỉnh thoảng mới mời họ làm việc, nhưng tính đến nay họ đã làm việc trong công ty qua nhiều mùa rồi.

Bennet mở chiếc ngăn kéo nặng bằng thép và lấy ra một cuốn catalogue. Ông giở nhiều trang và dừng lại khi đến chỗ cần tìm.

- Đây, anh nhìn đi, Anita ở đây. Đây là cuốn catalogue mới nhất của chúng tôi, catalogue mùa hè. Elizabeth ở trước trang này ba trang.

Ông đưa cuốn catalogue cho Brolin. Anh ngắm nhìn nụ cười không tự nhiên của Anita Pasieka. Mặt giấy láng bóng làm mất vẻ hoạt bát của cô gái trẻ, nhưng lại khiến Brolin như thấy lại bên trong ngôi nhà hoang. Vết mốc, bóng tối đen kịt mà chỉ những bó đuốc lớn mới xuyên thủng được, và khuôn mặt bị bỏng axít của cô gái tóc vàng trên tấm ảnh.

Anh đưa catalogue cho Bentley, anh ta cũng quan sát kỹ càng bức ảnh.

- Thời gian gần đây, hai cô gái này có nói với ông về nỗi lo sợ hay nghi ngờ gì không? Thanh tra Brolin hỏi.

- Sao lại thế được? Họ không kể chuyện đời tư với tôi. Thực ra, tôi không gặp gỡ họ, tất nhiên là tôi rất quý nhân viên, nhưng tôi chỉ như một con chó canh đàn cừu thôi. Tôi... Tôi hơi gia trưởng, nhưng không đến mức can dự vào cuộc sống của họ.

- Họ có nói với ông về một người nào đó đang theo dõi họ, hay một cú điện thoại nặc danh, hay một chuyện gì đó tương tự như thế không?

- Không, hoàn toàn không. Một lần nữa, tôi khẳng định với các anh: chúng tôi chỉ hơi quen biết nhau thôi.

Brolin gật đầu, tỏ ý đồng tình.

Anh chỉ những phòng khác ở bên kia hành lang.

- Toàn bộ Fairy's Wear đều ở đây phải không? Tất cả xuất phát từ đây phải không?

- Không, đây chỉ là trụ sở. Ở đây chúng tôi quản lý hành chính, đơn đặt hàng, hồ sơ khách hàng... Nhưng chúng tôi còn có một nhà kho ở Vancouver để chứa hàng hóa, và một phòng chụp ảnh ở phía bắc Portland.

- Nơi Elizabeth Stinger đã làm việc trong ngày cô mất tích.

Ông quản lý gật đầu, vẻ mặt rầu rĩ.

- Ông Bennet, có phải ông biết tất cả các nhân viên, tôi muốn nói là có phải ông tham gia tuyển chọn họ không?

- Phần lớn. Nhất là ở đây, ở trụ sở, nhưng sao vậy?

- Có thể cho tôi xem danh sách toàn bộ nhân viên được không?

- Vâng, tôi sẽ cho mang tới thật nhanh. Ô... (Miệng người quản lý tròn lại thành hình chữ O, đôi lông mày chau lại, thể hiện thái độ của một người chợt nhận ra rằng mình vừa phát ngôn điều gì đó trầm trọng.) Anh nghĩ là kẻ sát nhân nằm trong số chúng tôi hay sao?

- Tôi không biết. Rất có thể.

Một cơn rùng mình mạnh làm rung lớp mỡ của Philip Bennet.

Brolin đang định nói thêm rằng không nên coi nhận xét này là quá nghiêm túc, rằng khó có thể có chuyện đó, thì Bentley Cotland bật lên khỏi ghế.

- Chờ một phút! Anh ta kêu to. Hãy nhìn đây, Joshua.

Anh ta đặt cuốn catalogue lên mặt bàn làm việc và lần lượt giở trang ảnh của Anita Pasieka, rồi đến trang có ảnh của Elizabeth Stinger.

- Anh không nhận thấy điều gì sao?

Brolin chăm chú nhìn cả hai trang. Anita trẻ hơn, ít hơn khoảng mười tuổi. Với nét mặt khá dễ thương, cô thể hiện một cách hoàn hảo hình ảnh một cô gái trẻ năng động vừa tốt nghiệp. Elizabeth cũng thể hiện sự năng động đó, nhưng với kiểu khác. Kiểu một người mẹ trẻ trong trang phục nhã nhặn, mặc dù chiếc váy khá ngắn.

Váy ngắn.

Brolin lật đến trang có ảnh Anita.

Áo không tay.

Sao anh lại không nhận ra nhỉ? Anita để lộ đôi tay trần trước mắt khách hàng, còn Elizabeth để lộ đôi chân.

Đây chính là những bộ phận bị chặt mất.

- Thấy rồi, Bentley ạ. Quá rõ rồi...

Kẻ sát nhân đã thấy những tấm ảnh này. Và hắn đã chặt đi những bộ phận để trần trước ánh đèn flash.

Hắn chọn các nạn nhân của mình qua một cuốn catalogue, giống như người ta chọn đồ ăn trong tủ kính của siêu thị.
 

hoahongden12

Active Member

Liệu có thể cắt nghĩa tỉ mỉ tình yêu được không? Liệu có thể định lượng, định tính tình yêu, khiến nó mất đi mọi quyền năng bí ẩn và đánh mất phép thuật vốn làm chúng ta sợ hãi đến thế bởi không thể hiểu được và không thể chế ngự được nó?

Juliette tự hỏi như vậy trong khi nằm dài trên một trong những chiếc sofa lớn trong phòng khách. Một thanh củi nặng đang cháy và gãy ra trong lò sưởi, làm ấm căn phòng rộng mênh mông và cả tâm hồn của cô gái đang lúng túng với vô vàn câu hỏi.

Mới tối hôm qua thôi, cô còn tự thuyết phục bản thân rằng cô “chỉ thân thiết” với Brolin, nhưng giờ đây, cô đặt ra cho mình những câu hỏi với một sự chân thành đáng ngạc nhiên. Cô đang dấn sâu vào mối quan hệ với viên thanh tra trẻ, như thể cuộc đời cô chỉ còn xoay quanh chuyện đó từ vài ngày nay, nhưng lần này cô không tìm cách chạy trốn chủ đề đó. Tình cảm chính xác của cô đối với Joshua Brolin là gì? Cô thấy thoải mái khi ở bên anh, nhưng điều này có kéo dài không? Họ vui vẻ và say sưa dần khám phá nhau, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ thấy nhau ít bí ẩn hơn, nhiều thực tế hơn. Lúc ấy sẽ thế nào? Tình yêu – vì đây chính là nó, cho dù chỉ mới nảy nở – liệu có phải quyền năng đến thế, đẹp đẽ đến thế và đáng ao ước đến thế bởi nó rất ngắn ngủi không?

Juliette vớ lấy một cái gối dựa và máy móc ném qua đầu mình.

- Đừng tự tra tấn nữa, đứa con gái đáng thương ạ! Cô thì thầm. Hãy sống với cái mà mày có, nhận lấy khi nó tới. Và chỉ đón nhận hạnh phúc trong đó, tận hưởng mà không e sợ gì.

Đoạn độc thoại khiến cô buồn cười. “Phải ghi lại để vài năm nữa kể cho con mình nghe mới được!” Cô nghĩ với chút mỉa mai. Cô từng nghĩ đến tương lai chết già một mình, giờ đây lại nói tới chuyện con cái!

Buổi chiều sắp kết thúc, cái lạnh tháng Mười càng thêm buốt giá. Juliette bắt chéo tay dưới đầu. Cô cần phải tìm cho mình động cơ để đi học bài, sau buổi học sáng nay ở trường, cô nhận ra mình đã tụt hậu đến mức nào trong thời gian gần đây. Nhưng mới chỉ là học kỳ một thôi mà!

Chuông điện thoại đổ, Juliette giật mình.

Cô thở dài vì bực bội rồi ngồi dậy nghe điện thoại di động.

- Alô?

- Cô Lafayette phải không?

Giọng nói rất kỳ lạ, đục và xa xôi, giống như có một chiếc khăn mùi xoa dày bịt ở ống nghe.

- Vâng…Ai đấy?

- Hãy nghe cho rõ, ta không nhắc lại đâu.

Thật khó chịu khi không xác định được người nói là đàn ông hay phụ nữ, giọng nói không có âm sắc đặc trưng, có thể là một phụ nữ giọng khàn, hoặc một người đàn ông không vỡ tiếng.

- Chúng muốn đùa với ta. Nói với cảnh sát đây là lỗi của chúng. Ta khuấy động Địa ngục vì chúng không tôn trọng ta. May mắn cho cô, cô Lafayette ạ, ta đã lưỡng lự nhiều với cô, cuối cùng, ta đã chọn một người khác.

- Ngươi là ai? Juliette mất bình tĩnh.

- Không quan trọng, ta ở đây để hoàn thành số mệnh của mình. Nhưng hãy lo cho người thân của cô thì hơn…

Tiếp đó là tiếng cười lạnh lùng và đứt quãng, tiếng cười của một kẻ không cho phép bản thân tự do thể hiện bất cứ cảm xúc nào, một kẻ chế ngự mọi trạng thái tình cảm, không hề để lộ mưu đồ. Tiếng cười quá hiếm hoi chỉ có thể mang đầy toan tính xấu xa.

- Ngươi…

- Im đi! Nói với cảnh sát rằng chúng không tóm được ta nữa đâu, không bao giờ!

Hắn cúp máy.

Juliette vẫn đứng yên thêm một lát với chiếc điện thoại trong tay, nước mắt rưng rưng, nhưng không dám trào ra. Hắn là ai? Tại sao hắn lại gọi cho cô? Trong đầu cô bật lên hàng nghìn lời giải thích ít nhiều làm yên lòng, nhưng cô không thể ngăn mình run rẩy như một chiếc lá khô mà gió cố giật khỏi cành. Có thể một kẻ điên rồ có được số điện thoại của cô và dọa cô một phen, hay chỉ là một nhóm sinh viên ác ý đã cá cược nhau những trò quái đản.

Thế nhưng giọng nói ấy không có vẻ gì giả dối cả. Rất căng thẳng, đầy hận thù. Sau đó Juliette mới nhận ra sự tự tin, tự hào vô cùng, “chúng không tôn trọng ta”, “chúng không tóm được ta nữa đâu, không bao giờ!”. Hắn rất nguy hiểm. Hắn kìm nén mọi cảm xúc, chỉ để lộ ra những gì hắn đã kiểm soát, giấu kỹ những thứ còn lại, tích mãi tích mãi cho đến khi bão hòa.

Juliette nhắm mắt lại và ngay lập tức cô thấy một trong những kẻ một ngày nào đó vứt bỏ những gì còn lại của cuộc sống và phá bỏ mọi rào cản xã hội bằng cách hạ gục tất cả những ai có thể khơi sâu óc báo thù đó. Những Charles Whitman, Gene Simmons, hay Howard Unruh tiềm tàng…

Không phải một trò đùa ác.

“Hãy lo cho người thân của cô thì hơn…”

Juliette sững người. Ngay lập tức, một khuôn mặt hiện lên trên võng mạc của cô. Cô vội chạy ra sảnh và lao ra ngoài, không kịp xỏ giày.

Gary Seddon và Paul O’Donner đang canh gác trước số nhà 2885 Shenandoah Terrace, để giám sát – hay bảo vệ, tùy theo cách nói của mỗi người – cô, Juliette Lafayette. Gary hững hờ cắn vài miếng bim bim để cho có việc chứ không phải vì đói. Khi thấy Juliette đột ngột lao như tên bắn ra khỏi nhà, chân lại còn đi đất, anh vội quẳng cái gói xuống sàn xe và lao ngay ra ngoài.

- Cô Juliette! Có chuyện gì thế? Anh vừa kêu to vừa chạy sang đường.

Các ngón tay phải của anh vung mạnh, sẵn sàng bật về phía bao súng và khẩu Beretta 9 li đang nằm yên trong đó. Nhưng động cơ của chiếc Coccinelle cũ kỹ đã phụt khói và chồm lên phía trước.

Gary quay lại phía đồng nghiệp của mình rồi vội chạy vào xe.

- Hãy gọi tổng đài trung tâm, nói với thanh tra Brolin rằng cô gái được bảo vệ đã đi khỏi, và cô ấy đang trong tình trạng không bình thường.

Anh giẫm nát mấy miếng bim bim trên sàn xe rồi xoay chìa khóa khởi động.

Juliette đến phía Bắc phố 32 chỉ sau vài phút. Cô nhấn ga mạnh đến nỗi khó phanh lại trước ngôi nhà nằm bên trên khu phố và cũng chẳng để ý đến cảnh đẹp lộng lẫy của Portland nhìn từ đỉnh đồi. Cô chạy đến tận thềm nhà, bấm chuông và đập mạnh. Không thể chờ đợi thêm nữa, cô lấy chiếc chìa khóa mà Camelia đã đánh thêm cho cô và mở cửa. Nghĩ về người thân của mình, cô không chần chừ một giây nào. Vì có quá ít người thân, nên cô dễ dàng biết ngay đó là ai. Cha mẹ cô ở rất xa, họ sống trong một thế giới khác, dưới ánh mặt trời êm dịu ở Califonia. Brolin mới bước vào cuộc đời cô – và hoàn toàn có thể tự vệ được; chỉ còn lại duy nhất một người.

Cách đó vài mét, một chiếc xe Ford móp méo dừng lại, hai thanh tra “bảo vệ” cô bước ra, ngơ ngác.

Juliette đứng ở sảnh, đôi chân trần trên sàn gỗ lạnh.

- Chị Camelia? Cô gọi. Chị Camelia, chị ở đâu?

Cô lao vào phòng khách, phòng ăn, và tim cô ngừng đập một nhịp khi cô vào tới bếp.

Một ô kính bị vỡ, nhiều mảnh nhỏ rơi trên sàn, dính đầy băng dính màu nâu. Một ô kính của cửa sau.

Ôi, không, không phải thế. Cầu mong không phải như thế…

Juliette chăm chú quan sát căn phòng. Không vết máu, cũng không vết vật lộn.

Dấu hiệu tốt, có lẽ Camelia đã tự đập ô cửa kính để vào nhà. Chị ấy quên chìa khóa chăng?

Nhưng chính cô cũng không tin.

Cố chú ý để không giẫm đôi chân trần lên mảnh kính sắc nhọn, cô cầm lấy một con dao làm bếp dài và lại gần cầu thang.

Cô không gây một tiếng động nhỏ nào khi đi lên tầng hai. Cầm dao chĩa về phía trước, Juliette sẵn sàng đâm thủng bụng bất cứ kẻ nào hiện ra từ một cái tủ hay từ sau tấm rèm. Cô đến cửa căn phòng chính và nhẹ nhàng đẩy cửa bằng đầu ngón chân.

Không có gì.

Hay đúng hơn là có, một mùi hôi tỏa khắp phòng. Mùi vẫn còn khá nhẹ nhưng đủ để gây cảm giác buồn nôn.

- Cô Juliette? Này?

Đó là một trong hai thanh tra đang ở bên dưới, hẳn là trên thềm nghỉ. Juliette không đáp lại và tiến vào trong phòng.

Mùi bốc ra từ phòng bên cạnh, qua cánh cửa thông nhau. Đó là phòng tắm. Cánh cửa hé mở, Juliette thò đầu vào giữa mép cửa và tường, ngón tay siết chặt cán dao.

Mùi hôi xoáy tròn và bám dọc theo thành họng cô như một lớp đờm hôi thối.

Chính vào lúc đó, mũi dao cắm mạnh xuống sàn gạch, rồi lưỡi dao kêu loảng xoảng trong không khí phát buồn nôn.

Trong tư thế kỳ cục, Camelia nằm ngửa, hai cánh tay co quắp, da bị cháy từ bắp chân đến ngực. Đùi cô giống như tảng thịt để quá lâu trong lò nướng. Da cô bị tróc thành nhiều lớp cháy đen, dễ vỡ như các ngôi tháp của một tòa lâu đài bằng cát khô. Có thể thấy rõ các rãnh tĩnh mạch vẫn còn đỏ xen lẫn với các đường nứt trên thịt cháy khét.

Camelia chỉ bị cháy một phần vì lửa cháy trên tấm thảm phòng tắm đã bị tắt khi gặp sàn gạch, để lại một vết đen lạ lùng giữa không gian tinh khiết này.

Nhìn từ trên xuống, cảnh tượng giống như một bức tranh của Motherwell với vết đen không phù hợp nằm giữa một cảnh gần như vô cùng bình thường của cuộc sống. Có điều ở đây, cái chết đã tước đi mọi thứ bình thường của cuộc sống.

Tay nắm cửa kêu ken két dưới sức ép của các ngón tay Juliette.
 

hoahongden12

Active Member

Bentley Cotland và Joshua Brolin cùng ngồi trong chiếc Mustang, luồn lách giữa các làn xe trong đường cao tốc số 8 nối liền Beaverton và Portland. Họ không nói gì, cả hai cùng đang chịu đựng nỗi đau mà họ vừa chia sẻ. Họ đã gặp bố mẹ Anita Pasieka ở văn phòng cảnh sát trưởng và Brolin tỏ ra rất đồng cảm, nhưng cũng rất chuyên nghiệp, anh không quên đặt những câu hỏi cần thiết, dường như trong đầu anh luôn thường trực công việc điều tra, ngay cả khi anh thể hiện lòng dũng cảm và sự cảm thông. Bentley rất ngưỡng mộ điều này. Làm thế nào mà Brolin luôn có được ý thức như vậy, nói lời an ủi để đạt được một câu hỏi xác đáng? Ngay cả khi cách xử sự của Brolin không phải lúc nào cũng hợp ý anh, nhưng Bentley phải thừa nhận rằng có lẽ Brolin là một thanh tra cừ khôi.

Nếu có một chút khoảng lùi và một chút lương tri, hẳn Bentley sẽ không tỏ ra ngưỡng mộ mà sẽ tỏ ra khiếp sợ dấu hiệu vô liêm sỉ đó. Nhưng cái là điểm yếu trong mắt một số người lại được một số người khác coi như phẩm chất.

Viên trợ lý chưởng lý trẻ tuổi không thể kiềm chế lâu hơn nữa, và khi ý thức được rằng không phải lúc nào cũng có một người đồng hành dễ chịu, anh ta cảm thấy buộc phải khen ngợi Brolin:

- Anh… Cách anh tiếp xúc với bố mẹ nạn nhân vừa rồi khiến tôi rất ấn tượng. Anh làm rất tốt, khéo léo an ủi họ mà vẫn không quên lý do chúng ta đến đó. Thực sự là rất tốt. Rất chuyên nghiệp.

Brolin vừa lái xe, vừa liếc nhìn Bentley.

- Cám ơn.

Liệu có mỉa mai không? Brolin khéo léo tránh ngay vấn đề, anh không muốn nói nhiều về mình, về nhân cách của mình. Liệu anh chàng trợ lý chưởng lý trẻ tuổi có đủ khả năng hiểu thế nào là điều tra các vụ tội phạm tình dục trong suốt một quãng thời gian dài không? Liệu anh ta có thể hình dung được rằng sự tách biệt mà Brolin thể hiện là rào cản tinh thần duy nhất mà anh có thể chịu đựng được những sự tàn bạo mà nghề nghiệp buộc anh phải chịu đựng hết tháng này qua tháng khác không?

Anh vượt lên trước một chiếc xe hòm to với cửa kính màu nhạt sau khi bắt cỗ máy V8 của chiếc Mustang phải gầm lên.

Anh chọn cách làm dịu trò chơi, nếu Bentley chìa tay ra với anh, thì không có lý do gì để anh từ chối.

- Tôi đặc biệt đánh giá cao nhận xét của anh, Brolin nói thêm. Đừng nghĩ chuyện này là xấu, nhưng tôi và anh chưa hoàn toàn hiểu nhau…

- Chúng ta không có cái nhìn giống nhau về công việc, tôi nghĩ thế.

- Chúng ta không làm công việc giống nhau, Brolin khẳng định dứt khoát.

Ngay lập tức, anh hối hận vì đã tỏ ra quá cương quyết nên nói thêm bằng giọng ôn hòa hơn:

- Tôi nghĩ là phương pháp của chúng ta khác nhau, hai chúng ta đạt được mục đích của mình bằng những cách làm khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn đi tới đích chung, đúng không?

- Công lý.

Lần đầu tiên, một kiểu tình anh em trong nghề nghiệp nảy sinh giữa hai người, một nụ cười chia sẻ.

- Bước tiếp theo là gì vậy? Bentley tò mò hỏi.

- Tổng kết để lập kế hoạch điều tra tiếp.

- Có nghĩa là chúng ta chưa biết phải làm gì?

Đi thêm ba trăm mét nữa, một dãy đèn pha màu đỏ sáng rực trên đường, một đoạn tắc đường.

- Sao mà tôi thích đường cao tốc vào giờ cao điểm đến thế! Viên thanh tra trẻ thốt lên.

Họ đi chậm lại đến mức chỉ còn nhích được từng tí một.

- Thế này, ý kiến của tôi là: tổng kết. Anh có thể thấy phương pháp ấy thật dễ sợ, nhưng đó là điều quan trọng nhất trong một cuộc điều tra, tổng hợp đều đặn những gì chúng ta đã biết và từ đó vạch ra những hướng mới. Chúng ta biết gì cho đến lúc này?

Bentley Cotland gãi mạnh má.

- Rằng xác của Leland Beaumont đã bị đánh cắp, rằng kẻ giết người có mẫu ADN giống hệt với hắn và rằng đó là điều không thể. À, suýt nữa tôi quên mất: rằng Leland rất thích ma thuật và sự hồi sinh! Đây có thể trở thành một kịch bản tuyệt vời cho phim kinh dị, đúng không?

Theo cách liệt kê đó, các sự việc mang lại tầm quan trọng hoàn toàn khác, không thể có thực được và đe dọa sức khỏe tâm thần.

- OK, rất dễ liên tưởng như thế, nhưng chúng ta không phải đang trong một bộ phim, vậy thì cái gì có thể đây? Một là Leland Beaumont không chết, hai là chúng ta bị coi thường. Vả lại, tôi có đủ căn cứ để khẳng định với anh rằng Leland không còn ở thế giới này nữa, không ai có thể sống được sau phát đạn vào đầu, không một ai. Và “một khi đã loại trừ điều không thể xảy ra, thì điều còn lại, cho dù khó tin đến đâu, cũng là sự thực”, như Ngài Arthur Conan Doyle đã nói.

- Vậy điều gì còn lại, sự thật đó là thế nào, anh đã có lời giải thích chưa?

Tranh thủ lúc xe dừng ở chỗ tắc đường, Brolin nhìn thẳng vào mắt Bentley

- Anh tưởng tôi có thể ngủ được khi biết rằng một kẻ mà tôi đã hạ gục đang dạo chơi trong thành phố và giết người luôn tay, trong khi không có một lời giải thích hợp lý nào cho hiện tượng đó sao?

- Tôi không biết gì, nói thật là anh không…dễ đoán…

Brolin quan sát những đám mây to màu xám đang biến buổi chiều thành tà khúc khởi đầu của đêm.

- Tôi nghĩ rằng kẻ đã đánh cắp xác của Leland Beaumont chính là hung thủ giết người. Hắn có ADN của Leland, nước bọt của Leland mà chúng ta tìm thấy trên mẫu thuốc lá, ít nhất hắn cũng có vào lúc đầu, khi cái xác còn mới. Hắn chỉ cần giữ đông lạnh các mẫu.

- Anh thấy giả thiết này chấp nhận được sao?

- Dễ chấp nhận hơn ý tưởng về một âm binh trong thành phố.

Bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm trong xe.

- Chúng ta còn có hướng nào khác không nhỉ? Brolin nói tiếp. Chúng ta biết những gì?

Bentley nhún vai.

- Không nhiều, mới chỉ bắt đầu biết thêm một chút về các nạn nhân.

- Tôi không đồng ý. Chúng ta có những thông tin quan trọng. Chúng ta biết rằng có hai kẻ giết người, chứ không phải một.

- Có chắc chắn không?

- Theo tôi là chắc chắn, một kẻ quá tự tin, hiểu biết và tinh tường trong các bức thư, và ngược lại, rõ ràng còn có một kẻ khác thiếu độ chín trong các vụ giết người. Ít nhất có một kẻ giết người và một kẻ chủ mưu, kiểu như thầy và trò. Còn gì nữa không?

Nhớ lại ca khám nghiệm tử thi mà mình đã tham gia, Bentley vặn người trên ghế vì ghê sợ.

- Hung thủ có kiến thức về sinh học, anh nhớ lại.

- Chính xác. Lượng kiến thức tối thiểu giúp hắn cắt rời rất khéo các chi của nạn nhân. Ngoài ra, trong cả hai trường hợp, hắn đều cắt da gọn gàng, róc xương cẩn thận, nhưng lại cắt các cơ và thịt như một tên đồ tể. Hắn quan tâm đến da và xương, không để ý đến phần còn lại, tại sao vậy?

Bentley lắc đầu.

- Đó là một phần trong dấu ấn của hắn, một khía cạnh trong ảo tưởng của hắn mà chúng ta phải khám phá để hiểu rõ hơn, nhưng hiện tại, hãy gạt chuyện đó sang một bên, Brolin nói tiếp. Chúng ta cũng biết rằng hắn đã chọn hai nạn nhân trong cùng một cuốn catalogue, cũng chính trong catalogue này hắn đã thấy các chi mà hắn sẽ chặt. Hắn giở các trang và chọn bộ phận để trần trên cơ thể các cô gái. Mọi người chọn lựa quần áo, còn hắn chú ý đến người mẫu, hắn lựa chọn một cách bình thản. Có bao nhiêu cô gái chụp hình cho cuốn catalogue này nhỉ?

- Nếu tôi nhớ không nhầm thì là hơn tám mươi người.

- Ừ… Không thể giám sát tất cả họ. Sẽ phải cần đến hơn hai trăm cảnh sát, không thể tưởng tượng nổi. Chúng ta còn biết gì nữa?

Bentley nhíu mày, lục lọi trí não để nhớ lại nhiều phán đoán được đưa ra trong những ngày gần đây.

- Anh đã kết luận được gì về hung thủ?

- Người da trắng, từ hai mươi đến ba mươi tuổi, độc thân, có nơi ở tách biệt và một công việc bán thời gian, thậm chí không có việc làm, đấy là những nét chính.

- Bây giờ, chúng ta biết thêm rằng hắn xem catalogue của Fairy’s Wear, Bentley bình luận.

- Đúng, tôi đã yêu cầu xem danh sách những người đặt mua catalogue nhưng không chắc có được điều gì đáng kể, ngay cả khi hạn chế trong số nam giới. Hắn có thể mua cuốn catalogue ở bất cứ đâu, catalogue thường được phân phát miễn phí ngoài phố. Đây cũng là một hướng đi không có điểm kết thúc. Nhưng điều thú vị là những gì Philip Bennet nói ngay trước khi chúng ta rời khỏi đó.

- Gì cơ? Về vụ trộm năm ngoái ư?

Brolin đã cố hỏi về những sự việc bất thường xảy ra trong những tháng gần đây, khiến người quản lý phải kể ra rằng họ bị viếng thăm năm ngoái. Một buổi sáng, người ta nhận thấy nhiều ổ khóa bị phá, nhưng thật lạ lùng, không hề mất gì cả. Philip Bennet và cảnh sát kết luận rằng đây là cuộc viếng thăm của những tên trộm trẻ con và chúng hẳn đã thất vọng vì không tìm thấy gì để ăn trộm.

- Chính xác. Cậu có thấy bọn trộm nào đột nhập vào những văn phòng kiểu này không, nơi chẳng có gì ăn trộm ngoại trừ vài thiết bị tin học?

- Bọn trẻ con, một trò đùa…

- Không, tôi không nghĩ thế. Tôi sẵn sàng cá cược rằng chính là kẻ chúng ta đang tìm đã làm chuyện này.

- Thế thì ngớ ngẩn quá! Tại sao hắn lại làm thế bất chấp nguy hiểm bị tóm một cách ngu ngốc, hắn có mục đích gì?

- Không hiếm những kẻ giết người hàng loạt thích đột nhập vào nhà người khác, chúng đi khắp nhà vào ban đêm, ăn trộm những vật dụng cá nhân, trang phục chẳng hạn, đó là bước đầu tiên để tiến tới lấy mạng nạn nhân tương lai của hắn.

- Ở đó chẳng có gì thuộc về các nạn nhân cả!

- Nghĩ thêm một chút đi. Bennet nói là không bị mất gì. Nhưng có thể hắn đã sao chép cái gì đó.

Bentley thấy nhận xét này khá buồn cười.

- Sao chép ư? Chẳng có gì để sao chép ở đó cả, đây đâu phải là một vụ tình báo công nghiệp!

- Trừ khi đó là một kẻ tâm thần nguy hiểm đang trên đường gây tội ác. Ở trụ sở công ty có một file chứa tất cả thông tin về các nhân viên, trong đó có các người mẫu. Họ, tên, địa chỉ, ảnh, tất cả.

Bentley chăm chú nhìn Brolin. Rất lô gíc, như vậy kẻ giết người nắm được đầy đủ thông tin cần thiết để bắt đầu cuộc săn đuổi, hắn biết tất cả những gì hắn có thể cần đến về các nạn nhân, kể từ địa chỉ trở đi.

- Còn một việc khác, Brolin nói tiếp. Nếu kẻ đó chấp nhận rủi ro để đột nhập vào một công ty với mục đích lấy được file dữ liệu ấy, thì chúng ta có thể giả thiết rằng hắn sẽ tiếp tục săn lùng trên mảnh đất này, trong số những người phụ nữ ở đây. Nhưng ban đầu, sao hắn lại chọn công ty này, chứ không phải một công ty khác?

- Ngẫu nhiên thôi, một hôm hắn bắt gặp cuốn catalogue và thấy các cô gái trong đó đặc biệt hấp dẫn…

- Những kẻ giết người hàng loạt hiếm khi hành động một cách ngẫu nhiên trong việc lựa chọn nạn nhân khi đã có sự nghi thức hóa như thế này, đây không phải là những hành động bốc đồng, tất cả đều được tính toán tỉ mỉ. Cả việc lựa chọn nạn nhân. Nếu hắn quyết định tấn công các cô gái ở Fairy’s Wear, thì tức là nhất định phải có một điểm xuất phát. Thế nhưng trang phục ở đây chỉ dành cho phụ nữ. Tôi nghĩ rằng hắn theo dõi công ty này từ lâu, có thể mẹ hắn, hoặc một cô bạn gái mà kẻ chúng ta vẫn gọi là Quạ có quan hệ lâu dài, đặt mua hàng ở đây. Một mối liên hệ cá nhân với công ty này, cái gì đó trực tiếp nằm trong cuộc sống của hắn, ít nhất là trong chính mắt hắn. Rất có thể hắn nuôi ảo tưởng với những cuốn catalogue này được một thời gian rồi và chuẩn bị chuyển sang hành động. Vụ trộm xảy ra năm ngoái, hắn đã có nhiều tháng để chuẩn bị.

- Nhưng một cách cụ thể, điều này không cho chúng ta biết gì đáng kể, Bentley nhận xét, tôi muốn nói rằng chúng ta không thể xin được lệnh khám xét tất cả các thành viên của Fairy’s Wear.

- Đúng vậy, nhưng hoàn toàn có thể kẻ đó đã đặt mua vài món hàng ở đây. Đó chính là ảo tưởng của kẻ giết người loại này, có thể hắn ngủ với những món hàng ấy, hoặc mặc chúng một cách giấu giếm. Anh thấy tấm bảng không… Bennet sẽ gửi cho tôi danh sách tất cả các khách hàng trong hai năm gần đây.

- Sẽ có hàng đống những cái tên! Cotland thốt lên.

- Chúng ta sẽ sàng lọc và nhặt ra những người đàn ông độc thân, chắc là số này không nhiều, vì công ty không bán đồ dành cho đàn ông, chúng ta sẽ có vài kẻ không bình thường và những anh chàng đặt mua đồ cho mẹ hoặc người tình. Tôi cũng định tách riêng tất cả những khách hàng mua đồ mà Anita Pasieka mặc trên ảnh và đồ của Elizabeth Stinger, cũng sẽ không có quá nhiều tên đâu. Cần phải sàng lọc. Sẽ mất nhiều trang dữ liệu và vài ngày làm việc, nhưng có thể đem lại kết quả tốt đấy.

Bentley cảm thấy mắt Brolin đang nhìn vào mình.

- Này, tại sao lại là tôi phải gánh vác công việc khổ sai đó?

- Bentley, đừng giận, nhưng tôi tin chắc là trong việc phân loại giấy tờ, không ai hơn anh được.

Bentley không chống đối, về mặt nào đó, anh tự hào cảm thấy mình có vẻ được Brolin đánh giá cao, nhưng điều này khiến anh bỗng nhiên căng thẳng. Nếu anh hài lòng vì được viên thanh tra đề cao, thì đó là bởi chính anh đánh giá Brolin cao hơn nhiều so với việc anh tự thừa nhận với mình. Sau đó thì sao? Anh tự biết mình dễ cáu giận bột phát, nhưng không phải là con người hay thù vặt như nhiều người nghĩ. Ít nhất anh cho là thế.

- Nhưng chúng ta không biết điều cốt yếu, Bentley nói thêm khi giao thông trên đường trở nên thoáng hơn một chút.

- Nghĩa là thế nào?

- Ngoài những ảo tưởng về cái chết, thì mục đích của việc mà kẻ giết người và tên Quạ tìm cách làm bằng được là gì? Dường như anh nói rằng ảo tưởng dẫn tới giết người không dính dáng gì đến sự ngẫu nhiên cả, vậy thì tại sao lại chọn Thần khúc, chứ không phải là Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn?

- Anh học nhanh thật đấy, Brolin ngạc nhiên. Quả thực, chúng sử dụng “Địa ngục” của Dante vì nó thuộc kế hoạch gây dựng ảo tưởng của chúng, lý do thì tôi không biết. Nhưng có một mục đích, một chung cục. Chúng ta phải tìm thấy nó trước khi quá muộn. Chúng ta phải hiểu chúng muốn gì, chúng làm gì.

Tay Brolin nổi da gà, Bentley vừa nhắc đến điều mà anh sợ nhất. Chung cục hành động của chúng.

Họ về đến trụ sở cảnh sát trung tâm và tới gặp Lloyd Meats vào lúc Lloyd đang kết thúc bản báo cáo về các thông tin mà anh thu thập được liên quan đến Elizabeth Stinger. Nhìn thấy anh, Brolin không thể nhịn được cười, anh không quen nhìn anh bạn đồng nghiệp bị thiếu mất bộ râu.

- Có kết luận gì về Elizabeth không? Anh hỏi.

Meats giơ tay lên trần nhà khiến xương sống kêu răng rắc, mặt nhăn nhó.

- Không có gì đáng kể. Cô ấy không có kẻ thù, không bị đe dọa, không có bạn trai mới quen gần đây, bạn trai mới nhất là một người môi giới bảo hiểm sống ở bang Arkansas. Về vụ bắt cóc cô ấy, Salhindro đã cử hai người đi hỏi tất cả những người bán hàng ở đó, không ai thấy kẻ tình nghi tối hôm ấy. Về phần cô con gái nhỏ, hình như mẹ của Elizabeth sẽ chăm sóc nó. Còn các anh?

Brolin kể lại việc làm chiều nay và các hướng điều tra. Họ ở đó một giờ đồng hồ để hoàn thành bản báo cáo đầy đủ về các dữ liệu thu được. Sau đó, họ gọi món ăn Tàu giao hàng tận nơi. Brolin tranh thủ gửi đến phòng xét nghiệm mẫu nước bọt mà anh lấy của Milton Beaumont cùng vài lời cho Carl DiMestro và Craig Nova.

Ba người tập trung trong phòng làm việc của Brolin và bắt đầu sàng lọc hàng tấn tài liệu mà họ thu được ở nhà hai nạn nhân. Bản sao kê điện thoại, ngân hàng, thư từ mới, hóa đơn… mọi thứ đều được kiểm tra để chắc chắn rằng không có bất cứ chi tiết bất thường nào, yếu tố then chốt giúp họ biết được đường đi của kẻ giết người. Brolin biết rất rõ một điều, trong các vụ giết người hàng loạt, kiểu công việc chán ngắt này không đi đến đâu cả, vì kẻ giết người không có bất cứ liên hệ gì với nạn nhân trước khi hành động, thế nhưng vẫn cần phải làm. Cuối cùng, anh phải thừa nhận rằng sự có mặt của Bentley Cotland chỉ là một gánh nặng không có đối trọng, dù anh ta có thể tỏ ra dễ chịu như hôm nay, thậm chí là tỏ ra có ích, dạo này anh ta hay thể hiện điều đó khi nghề cảnh sát hiện ra trước mắt anh ta với tất cả thực tế của nó, chứ không phải như anh ta từng tưởng tượng khi còn ngồi trên ghế đại học. Về phía mình, Brolin không thể chê trách Bentley Cotland được gì, rốt cuộc, chính anh đã sai lầm về sự khác biệt có thể có giữa công việc hàng ngày của một nghề và cái mà người ta tưởng tượng, thời gian ngắn ngủi của anh ở FBI là một minh họa rõ nét.

Ánh sáng yếu ớt của mặt trời dần tắt, Portland sáng lên sau những ô cửa sổ rộng của văn phòng.

Brolin nhiều lần định gọi cho Juliette để nghe tiếng nói của cô, và có thể để được mời tới qua đêm ở nhà cô, nhưng anh xua ngay ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Họ chỉ vừa bắt đầu mối quan hệ, vì thế tốt nhất là không nên làm cô quá bất ngờ, anh có thể gửi hoa tặng cô vào ngày mai.

Ý nghĩ này khiến anh yên tâm để rồi anh lại chìm đắm vào hàng loạt dãy số dài mà anh đang có.

Khi cửa mở, cả ba người tưởng đã tới giờ ăn tối, nhưng không phải người đưa đồ ăn mà là Fletcher Lee với cái trán đầy nếp nhăn vì lo lắng.

- Josh, có một vấn đề với Juliette Lafayette. Seddon và O’Donner, hai cảnh sát đang làm nhiệm vụ bảo vệ cô ấy, đã phát đi tín hiệu 10-49.

10-49 là mật mã mà cảnh sát Portland sử dụng để thông báo về vụ giết người.

Thấy Brolin gần như rụng rời, Fletcher vội nói thêm:

- Cô ấy không sao, không trực tiếp bị sao cả. Hình như một cô bạn gái bị…

Anh nhìn vào mẩu giấy đang cầm trên tay.

- Một cô gái tên là Camelia McCoy. Cô ấy đã bị giết chết.

Brolin nhắm mắt và không hề nhận ra rằng chiếc bút chì vừa bị gãy giữa những ngón tay anh.
 
Bên trên