Ðề: Chắn học Đại cương
Chắn cạ đại cương (phần 2)
3. CƯỚC SẮC VÀ CÁCH TÍNH ĐIỂM CƯỚC SẮC
Xuông: 2 điểm, ù rộng và ko có cước nào, còn gọi là ù nhạt.
Thông: 3 điểm, 1dịch: Ván trước vừa ù, thì ván ù tiếp theo sẽ có cước thông.
Thiên ù: 3 điểm, 1dịch: Người có cái là người có 20 cây trên bài, nếu có đủ luôn chắn, cạ và ít nhất đáp ứng yêu cầu cơ bản thì ù luôn, gọi là Thiên ù.
Địa ù: 3 điểm, 1dịch: Cây đầu tiên từ dưới nọc lật lên cho phép mình ù luôn, thì ù này là địa ù.
Trì: 3 điểm, 1dịch: tất cả các trường hợp ù tại Cửa mình thì gọi là Ù trì, tức là cây để ù hiện lên ở Cửa mình.
Các cước trên là những cước trời cho- may mắn thì được và không cần gò bài còn những cước sau đây thì phải tính toán để gò bài (gò bài ở đây là chọn quân ăn và chờ ù).
Tôm: 4 điểm, 1dịch: trên bài có Thất Văn, Tam sách, Tam vạn. Nếu có 3 chắn này thì tức là có đôi Tôm.
Lèo: 5điểm, 2dịch: trên bài có Chi chi, Cửu vạn, Bát sách. Nếu có 3 đôi này thì tức là có đôi Lèo.
Bạch định: 6điểm, 3dịch: Trên bài ko có 1 cây đỏ nào, toàn cây đen.
Hình 7: Điếm tổ tôm
Tám đỏ: 7điểm, 4dịch: Trên bài có 8 cây màu đỏ, 12 cây đen.
Kính tứ Chi: tính điểm bằng 8 đỏ 2 lèo: 11điểm, 8 dịch: Trên bài có 4 con Chi Chi, còn lại là toàn cây đen.
Thập thành: tính điểm bằng 8 đỏ 2 lèo : 11điểm, 8dịch: Bài ù toàn Chắn, kô có 1 cạ nào.
Có thiên khai: 3 điểm, 1dịch : Trên bài có sẵn 4 cây giống hệt nhau.
Có ăn bòn: 3điểm, 1dịch: Trên bài có sẵn 1 chắn nào đó, ví dụ có chắn Tam vạn, nếu ăn được thêm 2 cây Tam vạn nữa để có 2 chắn Tam vạn để dưới chiếu thì gọi là có ăn bòn. Nếu ăn bòn để ù thì phải Hô là Ù bòn. Nếu ăn bòn xong mà chưa ù, thì sau này, khi ù rồi, nhớ hô thêm cước có ăn bòn để thêm điểm.
Có Chíu: 3điểm, 1dịch: trên bài có 3 cây giống y hệt nhau, nếu ai đánh ra hoặc nếu từ lọc lật lên 1 cây y hệt 3 cây này thì có thể chíu nếu thích, và phải hạ cả 3 cây trên bài xuống để tạo với cây vừa ăn được thành 1 cột 4 cây (2 chắn). Nếu chíu rồi ù ngay (bất kể là cây bị chíu được đánh ra hay dược lật từ nọc) thì phải hô là chíu ù, nếu chíu xong mà chưa ù thì sau này khi ù rồi nhớ phải hô là có chíu để thêm điểm. Nhớ là sau khi chíu xong thì phải Trả Cửa, tức là mình lấy về cây chíu được từ chỗ nào, thì phải trả lại (đánh ra) 1 cây vào vị trí đó; trừ trường hợp cây chíu được là cây mà người ở Cửa trên (ngồi bên trái mình) đánh xuống vị trí Cửa trên của mình(**), sau khi chíu xong thì không cần Trả cửa mà có thể đánh như bình thường 1 cây nào đó xuống Cửa mình.
Bạch thủ: 4 điểm, Nếu tính cả trên bài và dưới chiếu có 5 chắn và 4 cạ, thì coi như là đang đợi ù bạch thủ con lẻ còn lại. Từ lọc lật lên con nào y hệt con lẻ này thì mình sẽ được ù. Riêng bạch thủ ù chi được 5 điểm.
Gà: Những cước sau là có thêm Gà, tức là sẽ được cộng thêm 5 điểm: Trì bạch thủ, Bạch thủ ù bòn. Bị chê là “gà” nhưng cứ thỉnh thoàng lại có gà là lại ấm rồi.
4. MỘT SỐ LƯU Ý
- Nếu là ù bạch thủ = điểm ù bạch thủ+dịch của các cước còn lại+gà(nếu có).
Ví dụ : bạch thủ ù chi tám đỏ hai lèo có chiếu =bạch thủ ù chi 5+tám đỏ 5+hailèo*2 +chiếu 1 =15 điểm.
- Nếu là ù rộng = Điểm của cước to nhất + dịch của các cước còn lại + gà (nếu có).
Ví dụ : chì tám đỏ lèo có tôm có chiếu =tám đỏ 7+lèo 2+tôm 1+chiếu 1+chì 1=12 điểm.
Tùy theo từng nơi còn có thêm một số cước nữa và cách tính điểm của từng cước cũng khác nhau, nhưng phổ biến giang hồ nhất là những Cước và cách tính điểm như trên.
- Nếu đợi ù con Chi Chi, chỉ được phép đợi ù bạch thủ, nếu đã có 6 chắn trở lên thì được phép ăn Chi chi để tạo thành Chắn Chi, rồi tính toán để đợi ù con khác.
- Khi ù ba đầu thì không được hô bạch thủ, ví dụ Nếu trên bài có 5 chắn, 3 cạ, và 3 đầu:Tam sách, Tam Vạn, Tam Văn, thì gọi là Ba đầu Tam; nếu dưới nọc lật ra 1 con Tam bất kỳ nào, thì sẽ đựơc ù, nhưng ko được phép hô là ù bạch thủ.
- Không được ăn cạ đổi chờ : ví dụ : trên bài đang đợi ù bạch thủ con Tam Sách, và có 1 cạ Nhị vạn Nhị văn, nếu dưới nọc lật ra 1 con Tam Vạn thì tức là chưa ù được, nhưng mình sẽ không được phép ăn con Tam Vạn này (để thành Cạ Tam sách, Tam Vạn) rồi đánh ra 1 trong 2 con Nhị để đợi ù con Nhị.
- Nếu đã khhông ăn cạ hoặc chắn ở cửa trên thì cũng không được ăn cạ hoặc chắn ở cửa trì.
- Nếu người bên tay trái đánh 1 cây ra Cửa trên, hoặc lật lọc vào Cửa trên hay Cửa trì mà bị người khác Chíu, cây Trả cửa được phép ăn, không được phép ù, dĩ nhiên là trừ trường hợp Chíu ù.
- Nếu mình đánh ra hoặc Trả cửa vào Cửa mình mà bị người khác Chíu thì dĩ nhiên là cây Trả của người đó không được ăn, chỉ được phép Chíu ù.
- Nếu gặp trường hợp mình Trả cửa vào Cửa trên, và cây này bị người khác Chíu, thì cây Trả cửa của người đó mình vẫn có thể ăn được.
- Được phép đánh ra 1 cây y hệt cây Trả cửa của người khác vào Cửa mình (cái cây Trả cửa này trước đó mình kô được phép ăn theo . Ngoài ra thì không được phép đánh ra 1 cây giống y hệt 1 cây bất kỳ ở Cửa trên, Cửa mình, hay Chắn, Cạ của mình ở dưới chiếu.
- Nếu chơi chéo cánh, không được phép chíu ù cây mà người chéo cánh mình đánh ra.
- Nếu chơi chéo cánh, người chéo cánh mình bị báo thì mình ù không được tiền, nhưng ván sau nếu ù thì vẫn được hô thêm cước thông.
- Nếu mình bị ù báo, ván sau cho dù có ù thì cũng không được hô thêm cước thông.
- Những trường hợp ù mà không bị mất tiền, kô được thu tiền là do bị lỗi Treo Tranh thường, lỗi Trái vỉ (sẽ trình bày về những lỗi này ở dưới), ván ngay sau có ù thì cũng không được hô thêm cước thông, trừ trường hợp như chú ý nêu trên.
- Không được ăn cạ rồi lại đánh đi một cạ trên bài mình cũng như nếu đã đánh đi một cạ rồi thì chỉ được ăn chắn.
- Xướng (tức đọc các cước ù của mình sau khi ù) là một khâu rất quan trọng, thông thường người mới chơi chưa quen xướng ù, có thể nhờ người chơi cùng xướng hộ.
Xướng thiếu (tức xướng thiếu những cước bài mình ù, VD bạch thủ trì chỉ xướng bạch thủ): Xướng bao nhiêu, ăn bấy nhiêu.
- Xướng thừa (tức xướng những cước bài mình không có): Xướng bao nhiêu, đền bấy nhiêu.
- Xướng lỗi/sai (xướng nhầm cước hoặc trong khi xướng đọc 2 lần từ ù): xướng những cước nào thì đền những cước ấy. Đặc biệt chú ý từ ù mỗi lần xướng chỉ được đọc một lần, và có thể không đọc từ ù, VD đọc thông trì bạch thủ ù chi ù có chíu là lỗi.
5. CHIA BÀI VÀ CẮT CÁI
Sau khi ù thì ván bài đó kết thúc và chuyển chơi ván tiếp theo ,người thắng và người đối diện người thắng sẽ không phải chia bài, 2 người còn lại đều phải chia, mỗi người chia đều 5 phần rồi 2 bên ném bài hợp lại nhau theo kiểu gì cũng được, số cây lẻ ra sau khi chia hợp lại bằng 5 tức là chia đủ .Chia đúng tức là bài nọc có 24 cây còn bốn phần còn lại mỗi phần 19 cây. Người bắt cái phải kiểm tra nọc trước khi bắt cái và thông báo nọc thừa thiếu để các nhà biết. Sau khi xếp bài xong, phải kiểm tra xem mình có thừa thiếu hay không. Sau vòng đầu tiên mới phát hiện mình bị thừa, thiếu thì ngồi im… không được ù, dĩ nhiên là cũng kô bị báo, bị đền, ngồi mà đì nhà dưới cánh, hehe… Người làm cái phải vứt 5 cây kia vào 1 trong 5 bài vừa chia, vứt vào bài nào cũng được, bài đó sẽ được gọi là nọc, sau đó chọn ra 1 cây bất kì trong Nọc để ném ngửa vào 1 bài bất kì trong 4 bài còn lại, cây này sau khi ngửa ra thì làng sẽ biết được nó có thứ tự thế nào, và dựa vào đó mà phân cái theo chiều ngược kim đồng hồ, nhất là Chi, nhị là người bên phải, tam là người trước mặt, tứ là người bên trái, ngũ lại là nhất, lục lại là người bên phải…
Khi có kinh nghiệm có thể lấy bài theo nguyên tắc:
Chi,ngũ,cửu: nhất cái (cái người bắt).
Nhị,lục: cái tiến (cái người bên phải người bắt).
Tam, thất: cái đối (cái người đối diện người bắt).
Tứ, bát: cái lùi (cái người bên trái người bắt).
Mọi người nhặt bài theo chiều ngược kim đồng hồ, xếp bài, rồi bắt đầu chơi. Những cước quên không hô sẽ kô được tính điểm; hô sai, hô thừa cước thì bị báo(*), bị phạt bằng đúng số điểm hô sai, hô thừa; còn ù phá bạc tức là chưa ù mà đã hô láo(vô tình hoặc cố ý) thì sẽ bị phạt nặng bằng 8 đỏ, hay như thế nào thì tùy thuộc vào từng nơi.
6. CÁC NGÓN NGHỀ VÀ THUẬT NGỮ
Đơn giản như đánh phỏm cũng cần một số thủ thuật và ngón nghề như “câu bài”, “bắt móm”. Nếu các bạn đã hiểu qua cách đánh cơ bản thì cũng nên tìm hiểu các kỹ thuật nâng cao, tạm gọi là ngón nghề. Mỗi người chơi sau một thời gian đều rút cho mình những chiêu cao thấp khác nhau. Dưới đây là một số ngón nghề cơ bản, nếu áp dụng thường xuyên cũng mang lại hiệu quả rất cao.
Câu: là cái tưởng như dễ nhất trong các cái trên. Giống hệt như khi câu kéo trong phỏm. Không có gì nhiều để nói. Chỉ lưu ý là khi câu con gì thì cũng phải tính xem liệu nó có còn hay không, liệu thằng đầu cánh có què con đó hay không? Làm thế nào để tính được như vậy thì không có cách nào khác là các chú phải chịu khó nộp học phí nhiều nhiều chút vì chính đoạn này mới là high-tech.
Hình8: Chiếu chắn các cụ ngày xưa
Xé cạ (chắn): Thường khi đánh chắn thì bài càng “tròn” (nhiều chắn và cạ, ít cây què) càng tốt. Nhưng có khi vì một lý do nào đó mà ta không có cây thích hợp để đánh cho nhà dưới (VD như không dám đánh vì biết nó đang rình ăn cây đó của mình, bài tròn vo, thèm ăn cây gì đó nên phải đánh để câu, đang chờ bạch thủ bị lấp lỗ…) thì ta phải xé cạ, thậm chí trong một số trường hợp phải xé cả chắn. Xé cạ nói đơn giản là đánh 1 cây trong 1 cạ trên tay xuống, nhưng đánh con nào thì lại là cả một nghệ thuật, đặc biệt khi xé cạ chờ ù. Đánh con nào để thằng dưới cánh không ăn hoặc phải ăn (đánh để bắt nó ăn còn khó hơn đánh để nó không ăn được), để con nào để có cơ hội thằng nhà dưới tự thúc vào đít mình hay vồ được dưới nọc) thì phải nhìn bài trên mặt, tính bài trong nọc và nếu có thể, nhìn bài thằng bên cạnh . Xé chắn thì nói chung ít khi làm, vì xé cạ thì còn đánh được cả cạ (nếu các chú chỉ ăn toàn chắn dưới mặt), còn nếu đã xé chắn thì bị bó chờ, không thể đánh cả chắn đi được.
Đì: Trong Chắn học, đì là chỉ một sê-ri đòn đánh cho thằng dưới cánh những quân mà nó không thể ăn được, hoặc là có thể ăn được nhưng mà ăn thì sẽ dở cười dở mếu. Đì là một thuật ngữ mang tính chuyên môn cao. Đì mang tính trừu tượng nên người ta thường hiểu Đì qua những ví dụ của nó. Ví dụ: Thằng ấy bị sếp đì sấp mặt. Hoặc Mày mà làm vậy thì thế nào cũng bị nó đì. Áp dụng Đì thế nào? Thực ra không có một cách chính tắc nào nói về Đì. Đì phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và sự tính toán bài trước đó, nhìn bài hiện tại và nhìn vào tâm trạng của bọn cầm bài. Nhớ bài trước đó là một đòn rất lợi hại, nếu càng nhớ được nhiều ván trước đó thì khả năng Chờ, Đì và Ù là rất cao. Tuy nhiên khả năng này ít người có, hoặc có thì cũng không cao nên thường nhìn vào bài hiện tại. Ở chắn việc này không mấy khó khăn bởi ăn vào là đặt ngay xuống nên việc nhìn bài đánh là khá dễ dàng. Nhìn vào tâm trạng của bọn cầm bài cũng là một biện pháp hay nhưng thường chỉ áp dụng được với newbie, còn với bọn già đời lọc lõi thì cực khó. Đì đặc biệt hữu hiệu với những kiểu đánh chéo cánh (Đặc biệt là đánh hội ăn ngô cay), một thằng đì, một thằng nhẩn nha ăn rồi chờ ù. Một số chú y khi Đì: Chú trọng Đì nhưng nếu đánh lẻ thì vẫn phải chú y Ù. Nếu đánh chéo cánh cần phân công rõ thằng nào Ù, thằng nào Đì. Có thể dùng mật hiệu.
Tẩy: Thuật ngữ chuyên dùng chỉ việc đánh hết các quân đỏ trên tay đi để ù bạch định. Thường xảy ra khi bài các chú có hai hoặc ba đỏ. Nếu các con đỏ này đều trơ lơ (què) thì dễ ra quyết định tẩy hơn vì ngoài hậu quả là nhà dưới có thể ù 8 đỏ ra thì không khó khăn gì khi thực hiện. Nếu dính một hoặc hai cạ thì công việc khó khăn hơn nhiều. Trường hợp cả hai cây trong cạ đều đỏ thì bắt buộc phải tẩy cả cạ. Nếu là cạ có một con văn thì thường cũng phải tẩy cả cạ, nhưng đôi khi nhà dưới hoặc nọc sẽ cho ta ăn con văn ấy và công việc lại trở nên dễ dàng như các Hải đăng đi cóp & pết. Tuy vậy cũng không nên hy vọng nhiều quá. Và nhiều khi các chú sẽ phải cầm chính cái con văn ấy để chờ ù. Trong trường hợp này thì cố gắng chờ bạch thủ. Đôi khi bài các chú có quá nhiều đỏ đến mức phải đánh bớt đi để ù tám đỏ. Quả này ít xảy ra nhưng khong phải không có. Vụ này cũng là tẩy đỏ, nhưng là tẩy ngược.
Gò: Đây là kỹ thuật thường áp dụng khi bài các đồng chí có nhiều khả năng sẽ ù suông mà lại muốn kiếm tí cước sắc để xướng cho sang mồm. Có nhiều loại hình gò khác nhau, tớ sẽ mô tả lần lượt từ dễ đến khó.
Gò tôm: Thường diễn ra khi các chú cầm một con thất sách/vạn, một con tam sách/vạn hoặc mọt chắn tam sách/vạn và 1 con tam văn. Gò tôm nói chung dễ. Chỉ cần ăn con thất văn hoặc con tam còn thiếu rồi chờ cây còn lại. (Trường hợp ăn được cả tam lẫn thất rồi chờ nhị thì ko noi làm gì)
Gò lèo: Diễn ra khi các chú cầm một cạ cửu/ bát, một con chi và một con bat/cửu trơ lơ mà lại không dám hoặc không muốn tẩy đi để ù bạch định. Lúc này cũng giống như gò tôm, cần ăn cho được một/hai con cần thiết rồi chờ con còn lại. Thường là sẽ chờ chi, nếu nhà dưới nó thúc chi vào đít rồi hoặc chi nổi sớm thì chờ bát hoặc cửu.
Gò tám đỏ: Nói chung là khó. Nếu đã có từ năm đỏ trên tay thì công việc tương đối dễ dàng và không gọi là gò nữa. Gò là khi ta chỉ có bốn, thậm chí ba đỏ cùng hai con văn. Bốn đỏ gò tám đỏ thì dễ hình dung hơn, cứ một ăn một. Ba đỏ gò tám đỏ thì thiên nan vạn nan. Thường chỉ gò kiểu này khi nhà dưới khát đỏ ra mặt và nhà trên thì tẩy thật lực. Cộng với nọc chiều thì cũng có thể thành công.
Cũng tương tự với gò bạch định: khi bài chỉ có 1-2 cây đỏ thì ta tẩy đỏ đi để cày cước bạch định (trên bài không có con đỏ nào là bạch định). Bên cạnh đó khó hơn là không được ăn thêm cây đỏ nào. Cày Bạch định khó ở luật nếu ta không ăn cây nào thì cũng không được đánh cây đó đi (chỉ có cách ghép cạ hoặc cầm chờ ù), nên VD bài bạn đang có Chi Chi mà bị nhà trên đút Chi vào mồm thì không ăn không được, dở khóc dở cười.
Chíu: Cầm ba con giống hệt nhau trên tay, khi con còn lại do bất cứ nhà nào đánh ra hoặc do rút nọc mà lên, dù ở bất cứ đâu, thì hô chíu rồi lôi về cửa mình mà chén. Quả này thường được 1 dịch.
Ăn bòn: Cầm một chắn bài trên tay, thường do tránh treo tranh, đôi khi do cố tình (cấu lại của nhà dưới một cây nó thèm ra mặt chẳng hạn) nên tách chắn ra đưa xuống mặt một cây, trên tay còn lại một cạ hoặc 1 cây trơ lơ mà lại ăn được nốt cây còn lại thì gọi là ăn bòn. Quả này cũng được 1 dịch.
Ăn cạ đổi chờ: Ví dụ trên bài có cạ thất văn vạn, 1 con tam vạn. Đang chờ tam sách lên lấy tôm, thằng trên đánh ra thì tham (đã đủ tôm), ăn vào, đánh thất vạn chờ thất lấy tôm cho chắc cờ<--- ăn cạ tam đổi chờ từ tam sang thất <--- không được ù, nếu ù bị đền.
Hình 9: Các cụ trên chiếu chắn ngày nay
Treo tranh: Khi ăn 1 cây nào đó để tạo thành 1 Cạ để dưới chiếu, ví dụ như trên bài có cây Nhị Văn, ta ăn cây Nhị vạn để tạo thành Cạ Nhị vạn Nhị văn, phải để ý xem trên bài có Chắn nhị vạn không. Nếu có phải hạ cây Nhị vạn trên bài xuống chiếu để tạo thành Chắn nhị vạn đặt dưới chiếu, còn trên bài thì ta đã có Cạ nhị vạn nhị văn. Nếu có chắn này mà không phát hiện ra, thì mình sẽ bị mắc lỗi Treo Tranh. Ở những nơi nghiêm khắc, hạ tịch bất hồi, vi phạm lỗi là phải để nguyên, ai phát hiện ra thì nói, ko thì thôi. Còn thông thường thì sau 1 vòng mới bắt lỗi, tức là ta có thể thay đổi, trong ví dụ trên: giả sử nhầm lẫn hạ con Nhị văn xuống, ta có thể thay đổi ngay, hạ con Nhị vạn trên bài xuống, cầm con Nhị văn lên. Để tránh trường hợp này, thông thường khi ăn để tạo Cạ, người ta thường úp cây từ trên bài xuống rồi đánh đi cây khác cho nhanh ván bài, rồi kiểm tra xem trên bài mình có chắn nào trùng với cây vừa ăn không. Một lỗi Treo Tranh nghiêm trọng là nếu mình Chíu mà lại không hạ cả 3 cây xuống, thường là do mình quên mà ra, tức là sẽ dẫn đến việc không Trả cửa, nếu may mắn rơi vào trường hợp (**) thì sẽ chỉ bị lỗi Treo Tranh thường, ván sau có ù thì kô được hô thông, còn không thì sẽ bị nặng hơn là bị báo.
Gà: nói chung cái này vô biên không biết quy định thế nào, có chỗ gà mỗi bạch thủ trì, có chỗ ù linh tinh cũng được gà. Nhớ hồi xưa, mãi không được gà bèn nghĩ ra cước thông trì chíu (ăn bòn hoặc ù bòn, thiên khai) cũng được gà <--- tùy chỗ chơi quy định. Nói chung thường những cái sau được gà: trì bạch thủ, bạch định, 8 đỏ, thập thành, kính tứ chi ( 2 cái sau tính bằng 8 đỏ 2 lèo, thường là thế).
Suông: ù không có cước gọi là ù suông, các bác cho em bao nhiêu thì cho. Có nơi quy định không được ù suông, cho nó vui thôi. Khi đó thì được bỏ ù, chờ nó lên cửa trì ù lấy cước trì cũng đc. À nói đến bỏ chờ, có nghĩa là ví dụ bác chờ rộng, trên tay bác có đôi thất văn, lẻ con tam vạn chờ ù. Bài nó lên tam văn (or tam vạn)<-- bác chỉ ù suông. Nếu bác không ù, tham chờ tam sách lên để ù tôm <- bỏ ù tam trước (văn hoặc vạn)<-- tam sau (sách) lên không được ù.
Báo (phải đền): không có cước mà lúc ù lại nói thì là báo. Ví dụ rõ nhất vừa nêu trên, không có thông mà đòi hô <-- báo.
Trái vỉ: ăn con gì xếp con đó nằm dưới, chỉ áp dụng cho ăn cạ vì ăn chắn thì con nào chẳng như con nào. Ví dụ trên bài có tam vạn, ăn tam sách/tam văn thì khi xếp cạ, con tam vạn phải nằm trên con tam văn/tam sách. "Con" nào "ăn" "con" khác thì nằm trên còn "gay" thì "con" nào nằm trên cũng được nhờ bà con nhờ. Làm như thế để thiên hạ có thể phỏng đoán bài. Nếu vi phạm thì gọi là bị lỗi Trái vỉ.
Bí ngũ: ko còn là tám đỏ mà là mười đỏ (các cụ xướng là thập điều) vì sử dụng hết cả 120 cây nên nhiều đỏ hơn , ngoài ra còn có cước "kính cụ", tương đương bạch định nhưng có một con yêu "ông cụ" duy nhất trong bài. Thêm phát nữa là "kính tứ cố", tương tự "kính tứ chi" nhưng thay 4 con chi bằng 4 con "ông cụ" trên nền bài đen xì Nhưng cước này đặc biệt kiêng hô nhất là khi trong hội đánh có cụ cao tuổi hoặc là trong dịp Tết nhất vì là điềm xấu các cụ cao tuổi dễ "đi". Nên trong trường hợp đó cứ hô "kính tứ chi", làng sẽ không phạt mà vẫn trả tiền như thường.
7. BÊN LỀ CHIẾU CHẮN
Bên lề chiếu chắn cũng hình thành những câu, từ tiếng lóng hình thành từ quân bài chắn hoặc có liên quan đến những quân bài chắn cũng khá thú vị.
Cửu vạn = chỉ dân bốc vác ( hình Cửu Vạn là anh chàng vác đồ).
Đi một lèo (ví dụ như Vợ bỏ , Hết Tiền , Cháy nhà cũng một lúc).
Đồ tam văn (thằng thọt).
Nhà trên đì nhà dưới thật lực. Nhà dưới oánh con nào, nhà trên đì con đấy! Làng gọi đấy là: Nhà máy in.
Thấy bác nào hơi giống Lưu Dung thì gọi là cụ Nhị Sách.
Chú nào có bồ ngồi bên đếm tiền mấy lị mái xùy, làng gọi là: ấp Bát Sách. Các cô ở đây cẩn thận! Nhỡ có chú nào khen là "Em đẹp như nàng Bát Sách!" thì phải xét lại chú ấy ngay.
Bài không có cơ cấu lấy cước sắc, gọi là Tôm cong Lèo cụt.
Chíu ở cửa trì nhà mình thì gọi là: chíu tại mả!
Bác ngồi dưới em, nọc ra con bát sách bác thèm lắm, nhưng mà em cấu xừ mất, đánh trả con khác bác không ăn, bốc nọc lại nguyên con bát sách. Người ta gọi đấy là cấu lại mọc.
Đang đánh, bác buồn quá, đứng dậy đi thăm anh WC không ngờ bốc cái đúng bác, thế là cả hội phải ngồi chờ bác. Thế gọi là cái thằng đi đái.
Đang chơi có thằng bảo tao đi thăm anh WC cái, rồi chờ mãi 1 đi không trở lại, thôi chết mẹ nó ăn non bùng mất rồi. Anh em chửi: bố cái thằng đi đái Sài Ghềnh.
Đang đánh đen quá bảo chéo cánh đổi chỗ gọi là xoay bàn thờ.
Đang oánh thì đi đái gọi là: đi đếm tiền giả làng.
Nhà cái bận chuyện riêng để làng chờ gọi là: bắt cái đúng thằng đi đái.
8. CHẮN VÀ VĂN HỌC
Nhà thơ Nguyễn Khuyến có nhắc đến Tổ Tôm trong bài "Tự trào" :
...Mở miệng nói ra gàn bát Sách
Mềm môi chén mãi tít cung Thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.
Còn nhà thơ Trần Tế Xương cũng có đề cập đến trò chơi này:
Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ
Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm.
Riêng nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết cả một bài thơ, câu nào cũng có tên một quân bài Tổ Tôm, theo tương truyền là để khất nợ :
Thân "bát văn" tôi đã xác vờ.
Trong nhà còn biết "bán chi" giờ?
Của trời cũng muốn "không thang" bắc,
Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ.
Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu.
Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa.
Đã không "nhất sách" kêu chi nữa?
"Ông lão" tha cho cũng được nhờ!
Trên đây là tổng kết khá đầy đủ về một môn khoa học giải trí có rất nhiều “ thống khoái” là chắn học. Biết chơi chắn là có thể được ngồi “chiếu trên” hầu các cụ rồi. Hy vọng vài lòng trên đây có thể giúp ích cho những ai quan tâm đến môn “đan quạt” thú vị này.
Sưu tầm.