Biểu Tượng Thất Truyền

hoahongden12

Active Member

Robert Langdon nằm im, run bắn, trần truồng và cô độc trong bóng tối đặc quánh. Đờ đẫn vì sợ, anh không còn đập tay hay kêu gào nữa. Thay vào đó, anh nhắm mắt lại, cố gắng kiểm soát hơi thở hỗn loạn và nhịp tim nện như trống dồn của mình.

Ta đang nằm dưới trời đêm mênh mông. Anh cố gắng thuyết phục bản thân. Bên trên là cả một không gian rổng mở và thoáng đãng.

Viễn cảnh êm đềm ấy là cách duy nhất anh từng nghĩ đến để sống sót khi chui vào cái ruột chật hẹp của cỗ máy chụp cộng hưởng từ kín bưng, cùng sự hỗ trợ của một lượng thuốc an thần nhiều gấp ba mức bình thường. Tuy nhiên tối nay, viễn cảnh ấy không có tác dụng gì hết.

° ° °

Nùi giẻ trong miệng Katherine Solomon trượt vào sâu hơn và gần như làm cô tắc thở. Đi hết đường dốc hẹp, kẻ bắt cóc vác cô xuống hành lang tầng hầm tối om. Katherine liếc thấy một gian phòng thấp thoáng ánh sáng đỏ tía rất lạ đằng cuối hành lang, nhưng họ không đi đến tận đó. Gã đàn ông dừng lại trước một gian phòng nhỏ dọc đường, mang Katherine vào trong và hạ cô xuống một chiếc ghế gỗ, trói chặt hai tay cô ra sau lưng tựa phòng hờ cô di chuyển.

Katherine cảm thấy sợi dây trên cổ tay thít sâu hơn vào thịt mình. Cơn đau kèm với nỗi hoảng sợ càng lúc càng tăng khiến cô khó thở. Nùi giẻ trong miệng tụt sâu hơn vào cổ họng, Katherine cố ọe để đẩy nó ra, mắt cô hoa lên.

Phía sau, gã đàn ông xăm trổ đóng cánh cửa duy nhất lại và bật đèn sáng. Nước mắt Katherine chảy ra giàn giụa, cô không còn phân biệt được các đồ vật ngay xung quanh mình nữa. Mọi thứ trở nên nhòe nhoẹt.

Khi mắt mờ hẳn và sắp sửa bất tỉnh đến nơi, Katherine bỗng thấy một bóng người méo mó da dẻ loang lổ xuất hiện ngay trước mặt, vươn cánh tay đầy vảy tới rút nùi giẻ khỏi miệng cô.

Katherine thở gấp, cố hít những hơi thật sâu rồi ho rũ rượi và sặc sụa khi không khí quý giá tràn vào màng phổi. Mắt rõ dần trở lại, cô nhận thấy mình đang nhìn thẳng vào mặt ác quỷ. Diện mạo ấy khó có thể gọi là mặt người, cổ, mặt và cái đầu nhẵn thín chi chít những biểu tượng xăm trổ kỳ dị. Chỉ trừ một vòng tròn nhỏ trên đỉnh đầu, còn lại mọi diện tích trên cơ thể gã đều dày đặc hình trang trí. Trên ngực gã có một con phượng hoàng hai đầu cực lớn, nó chòng chọc nhìn Katherine bằng cặp mắt trùng với hai núm vú, y như mắt kền kền đói mồi đang kiên nhẫn chờ đợi cái chết của cô.

- Há miệng ra, - gã đàn ông thì thào.

Katherine trợn mắt nhìn con quái vật với tất cả vẻ khiếp đảm. Cái gì cơ?

- Há miệng ra, - gã đàn ông nhắc lại - Nếu không tôi lại nút mớ giẻ vào mồm bà đấy.

Katherine rùng mình há miệng ra. Gã đàn ông luồn ngón tay trỏ xăm trổ to tướng của mình vào giữa hai bờ môi cô. Khi bị chạm vào lưỡi Katherine chỉ chực nôn mửa. Gã đàn ông rút ngón tay ướt nhoét ra rồi đưa lên đỉnh đầu trọc lóc. Nhắm mắt lại, gã xoa nước bọt của cô vào khoanh tròn nhỏ chưa xăm trổ.

Katherine ghê tởm ngoảnh mặt đi.

Gian phòng này rất giống một phòng nồi hơi với nhiều đường ống trên tường, những âm thanh ùng ục và những ngọn đèn huỳnh quang. Chưa kịp ghi nhận hết quang cảnh xung quanh mình, ánh mắt Katherine đã dừng sững lại ngay sàn nhà bên cạnh cô. Ở đó có một đống quần áo: áo len cổ lọ, áo khoác thể thao vải tweed, giày lười, đồng hồ Chuột Mickey.

- Chúa ơi! - Cô quay phắt lại phía con thú xăm trổ - Ngươi đã làm gì Robert?!

- Suỵt! - gã đàn ông thì thào - Nếu không hắn sẽ nghe thấy tiếng bà đấy.

Gã bước tránh sang một bên và ra hiệu về phía sau.

Không thấy Langdon đâu cả, chỉ có một chiếc hòm lớn bằng sợi thuỷ tinh màu đen, hình dáng từa tựa loại thùng nặng trịch chuyên đựng các xác chết để chuyển về hậu phương trong thời chiến. Hai cái móc to tướng khoá chặt chiếc hòm.

- Robert ở trong ư? - Katherine thảng thốt - Nhưng… anh ấy sẽ chết ngạt mất!

- Không, không hề gì, - gã đàn ông nói, đoạn trỏ một mớ đường ống trong suốt chạy dọc tường xuống dưới đáy hòm - Rồi hắn sẽ ước giá như được chết ngạt ấy chứ.

° ° °

Trong bóng tối dày đặc, Langdon chăm chú lắng nghe những âm thanh bị chặn lại ở thế giới bên ngoài. Có tiếng nói. Anh nện cái hòm thật lực và gào to hết mức.

- Cứu! Có ai nghe thấy tôi không??

Xa xa, một giọng tắc nghẹn kêu lên.

- Robert! Chúa ơi, không! KHÔNG!

Anh biết giọng nói này. Đó là Katherine, dù đong đầy hốt hoảng thì vẫn là một âm thanh dễ chịu. Langdon hít một hơi thật sâu, định cất tiếng gọi, chợt anh dừng lại ngay vì cảm nhận một biến đổi bất ngờ phía sau gáy. Có làn hơi rất nhẹ đang toả ra từ đáy hòm. Sao lại như thế được nhỉ? Anh nằm thật im, nghe ngóng. Phải, hoàn toàn chính xác. Những sợi tóc nhỏ xíu nơi gáy anh đang rung rung trước luồng không khí chuyển động.

Theo bản năng, Langdon bắt đầu sờ dọc theo đáy hòm tìm kiếm nguồn không khí. Chỉ thoáng chốc anh đã xác định được vị trí. Có một chỗ hở nhỏ xíu. Nó gồm nhiều lỗ li ti, giống như đường thoát của bồn hoặc chậu rửa, chỉ khác là hiện đang có một luồng không khí nhè nhẹ liên tục thổi vào.

Hắn bơm không khí cho mình. Hắn không muốn mình chết ngạt

Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon không kéo dài lâu. Một âm thanh hãi hùng vọng tới qua những lỗ li li ở đáy thoát. Đấy là tiếng òng ọc không lẫn vào đâu được của chất lỏng đang chảy… tới chỗ anh.

° ° °

Không sao tin nổi vào mắt mình, Katherine trừng trừng nhìn cột chất lỏng trong suốt chạy xuống một trong những đường ống thông với cái hòm nhốt Langdon. Cảnh tượng trông y như màn trình diễn của ảo thuật gia.

Hắn bơm nước vào hòm ư?

Katherine cố rướn người, bất chấp những vòng dây cứa sâu quanh cổ tay mình. Lực bất tòng tâm, cô đành chứng kiến diễn biến trong tâm trạng hãi hùng. Langdon tuyệt vọng nện liên hồi, nhưng khi nước tuồn đến đáy hòm, anh dừng lại. Sau một khoảnh khắc im lặng kinh hoàng, tiếng nện lại vang lên với tất cả nỗi tuyệt vọng mới.

- Hãy thả anh ấy ra! - Katherine van nài - Xin anh! Anh không thể làm thế?

- Chết đuối là một cái chết kinh khủng, bà biết không? - Gã kia thản nhiên nói và bước vòng quanh Katherine - Trợ lý Trish của bà có thể kể cho bà nghe trải nghiệm đó.

Lời gã đàn ông lọt vào tai Katherine, nhưng cô chẳng còn tâm trí đâu để lĩnh hội.

- Hẳn bà vẫn nhớ tôi từng suýt chết đuối, - gã thì thào - Chính tại điền trang của gia đình bà ở Potomac. Anh trai bà đã bắn tôi, và tôi ngã xuống từ cây cầu của Zach, ngã xuyên qua băng.

Katherine chằm chằm nhìn gã, ánh mắt đầy căm hận. Cái buổi tối nhà ngươi giết chết mẹ ta.

- Đêm hôm ấy thần linh đã phù hộ tôi - gã nói - Và chỉ đường cho tôi trở thành một trong số họ.

Nước òng ọc chảy vào hòm, âm ấm ngay dưới đầu Langdon… hơi ấm của thân nhiệt. Chất lỏng đã dâng cao vài phân và hoàn toàn nuốt chửng phần lưng trần của anh. Khi nó bắt đầu bò tới lồng ngực, Langdon nhận ra thực tế u ám đang đến gần.

Mình sẽ chết.

Hoảng hốt, anh vung tay và lại bắt đầu nện dữ dội.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 101

- Anh phải thả anh ấy ra! - Katherine nài nỉ, rồi bật khóc - Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?

Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.

Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.

- Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão…

- Anh ấy đâu rồi?! - Katherine gặng hỏi - Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và…

- Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.

- Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác - Katherine trả lời, cố nén nước mắt - CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.

Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.

Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.

- Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?

Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.

- Đúng - cô thú nhận - Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.

Gã nọ kéo mạnh hơn.

- Địa chỉ trên chóp là gì thế?

Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.

- Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.

- Tám? - Katherine há miệng vì đau - Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: "Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin". Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!

Gã kia vẫn không buông vai cô.

- Tôi chỉ biết đến thế thôi - Katherine nói - Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!

- Tôi sẽ… - gã kia nói - nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?

- Tôi không biết!

- Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?

- Biểu tượng nào ở đế? - Katherine ngơ ngác không hiểu - Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.

Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.

Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.

Không… không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.

Hoàn toàn lộn xộn.

- Tôi…không hiểu ý nghĩa của nó - cô thú nhận.

- Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng - Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm - Ta thử hỏi ông ta nhé?

Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.

Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas.

° ° °

Ánh sáng!

Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang.

Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.

- Katherine đâu? - Langdon gào toáng - Thả ta ra!

Gã kia mỉm cười.

- Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, - gã nói - Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.

Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.

- Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? - gã hỏi.

- Có! - Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn - Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết…

- Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas - Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon - Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.

Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là…"Tổ Chức" ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?

Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.

- Đúng, - anh hét lên - Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!

- Ông biết toà nhà đó thì phải?

- Biết rất rõ! - Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh - Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!

Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?

- Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.

- Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.

Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!

Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas.

Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.

- Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? - gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình - Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giây.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 102

Robert Langdon thường nghe nói rằng khi bị dồn đến đường cùng, động vật có thể phát huy sức mạnh một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, khi anh vận hết sức bình sinh đẩy mạnh nắp hòm, vẫn chẳng có gì nhúc nhích cả. Quanh anh, chất lỏng liên tục dâng lên. Chỉ còn không quá sáu phân không gian để thở, Langdon buộc phải nhô đầu cao lên phần dưỡng khí còn lại. Lúc này mặt anh đang áp vào mặt kính Plexiglas, mặt anh chỉ cách các hình khắc rắc rối dưới đế kim tự tháp đá có vài phân.

Mình không hiểu thế này có nghĩa gì.

Sau hơn một thế kỷ bị giấu kín dưới hỗn hợp cứng gồm sáp trộn bột đá, lúc này phần hình khắc cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm đã hiện ra rõ rệt. Đó là một đồ hình vuông vức gồm những biểu tượng thuộc mọi truyền thống mà người ta có thể tưởng tượng được: giả kim, chiêm tinh, huy hiệu, thần thánh, pháp thuật, số học, con dấu, Hy Lạp, La tin. Gộp tất cả lại, đây là một mớ bòng bong biểu tượng, một nồi lẩu thập cẩm chữ cái thuộc về hàng chục ngôn ngữ, nền văn hoá và thời kỳ khác nhau.

Hoàn toàn lộn xộn.

Nhà ký tượng học Robert Langdon, dù vận dụng những cách diễn giải học thuật phóng túng nhất, cũng không thể suy luận được cách giải mã bảng biểu tượng này để cho ra một ý nghĩa gì đó. Tìm ra trật tự từ mớhỗn độn này ư? Làm gì có chuyện.

Chất lỏng bò dần qua yết hầu Langdon, nỗi sợ hãi của anh cũng ráo riết tăng theo. Anh tiếp tục nện thình thình. Ngọn tháp đá như đang trợn mắt nhìn lại anh đầy cay độc.

Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực. Langdon gắng tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bàn cờ biểu tượng nọ. Chúng có thể mang ý nghĩa gì nhỉ? Tiếc thay, cách sắp xếp lung tung đến mức anh không hình dung nổi nên bắt đầu từ đâu. Thậm chí chúng còn không xuất phát từ cùng một giai đoạn lịch sử!

Bên ngoài. Katherine nức nở van nài gã nọ thả Langdon. Dù cách âm. Langdon vẫn loáng loáng thoáng nghe thấy tiếng cô. Tuy đang bế tắc, nhưng mối đe doạ của cái chết dường như kích thích mọi tế bào trong cơ thể anh phải hoạt động để tìm ra một giải pháp.

Langdon cảm thấy đầu óc minh mẫn hơn bao giờ hết. Hãy suy nghĩ! Anh nhìn kỹ một lượt đồ hình, cố tìm manh mối, có thể là mẫu hình, là từ ẩn, là biểu tượng đặc biệt hay bất kỳ chi tiết gì khác, nhưng anh chỉ thấy một mớ biểu tượng chẳng liên quan gì đến nhau. Lộn xộn.

Mỗi giây trôi qua, trạng thái tê dại lại chiếm lĩnh dần cơ thể Langdon. Dường như xương thịt anh đang chuẩn bị che chắn tâm trí khỏi cơn đớn đau vì cái chết. Lúc này, nước đang mấp mé tràn vào tai anh, Langdon cố ngóc cao đầu hết mức, áp hẳn vào nóc hòm. Những hình ảnh hãi hùng bắt đầu lóe lên trước mắt anh. Một cậu bé lội bì bõm dưới đáy giếng tối om ở New England. Một người đàn ông bị mắc kẹt dưới bộ xương trong quan tài lật úp ở Rome.

Tiếng kêu khóc của Katherine nghe càng cuống quít hơn. Langdon luận ra là cô đang cố gắng phân tích phải trái với gã điên kia, cô khẩn khoản nói Langdon không thể giải mã được cái kim tự tháp nếu không tới Đền Almas.

- Rõ ràng toà nhà đó chứa phần còn thiếu của câu đố. Làm sao Robert giải mã được kim tự tháp nếu không có đủ thông tin?

Langdon rất cảm kích những nỗ lực của Katherine, nhưng anh tin chắc rằng "Tám Quảng trường Franklin", không dính dáng tới Đền thánh Almas. Mốc thời gian không khớp! Theo truyền thuyết, Kim tự tháp Tam điểm được tạo ra vào giữa thế kỷ XIX, nhiều thập kỷ trước khi các Hiệp sĩ Đền thánh xuất hiện, có lẽ còn trước cả khi quảng trường được đặt tên là Franklin. Cái chóp không thể chỉ tới một toà nhà chưa xây dựng tại một địa chỉ chưa hề tồn tại được. Cho dù "Tám Quảng trường Franklin" ám chỉ điều gì… thì nó cũng phải tồn tại vào năm 1850.

Tiếc thay. Langdon không nhìn ra manh mối nào cả.

Anh cố lục lại trí nhớ để tìm mọi sự kiện khả dĩ trùng khớp về mốc thời gian Tám Quảng trường Franklin ư? Cái gì ra đời năm 1850 nhỉ? Langdon không nghĩ ra. Chất lỏng đã chảy dần vào tai anh. Cố nén cơn sợ hãi, Langdon đăm đăm nhìn các biểu tượng trên tấm kính. Anh không hiểu mối liên hệ! Trong tâm trạng hoảng loạn đến đờ đẫn, trí não anh bắt đầu bật ra tất cả những tương quan mà nó có thể liên tưởng.

Tám Quảng trường Franklin… quảng trường - ô vuông 1 … bảng biểu tượng này là một hình vuông… thước thợ và com pa là biểu tượng của Hội Tam điểm… Các bàn thờ của Hội Tam điểm đều hình vuông… hình vuông có các góc 90 độ. Nước vẫn dâng lên, nhưng Langdon mặc kệ. Tám Franklin… tám… mỗi chiều của bảng này là tám ô vuông… Franklin", gồm tám chữ cái…, "Giáo phẩm" cũng gồm tám chữ cái… 8 là biểu tượng xoay ngang của 8 chỉ "dương vô cùng…tám là con số đại diện cho sự huỷ diệt trong môn số bí thuật…

Langdon không nghĩ ra điều gì.

Bên ngoài, Katherine vẫn đang van nài, nhưng Langdon chỉ còn nghe câu được câu mất vì nước đang lõng bõng quanh đầu anh.

- … không thể nếu không biết… thông điệp của cái chóp rõ ràng… bí mật giấu trong…

Rồi không thấy tiếng gì nữa.

Nước tràn vào tai Langdon, chặn toàn bộ tiếng nói của Katherine.

Sự im lặng chết chóc đột ngột trùm lấy anh. Langdon nhận ra mình sắp lìa đời thật.

Bí mật giấu trong…

Những lời cuối cùng của Katherine vọng vang trong nấm mồ của anh.

Bí mật giấu trong…

Lạ thay, Langdon nhận ra trước đây mình đã nghe thấy những từ này rất nhiều lần.

Bí mật giấu… ngay bên trong…

Những Bí mật cổ xưa như đang cười nhạo anh. "Bí mật giấu ngay bên trong" là nguyên lý cốt lõi của mọi điều bí ẩn, thúc giục con người tìm kiếm Chúa trời, nhưng không phải trên thiên đường mà là ngay trong chính mình. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Đó là thông điệp của tất cả các bậc thầy bí truyền vĩ đại.

Đất của Chúa nằm ngay trong chính các con, Jesus Christ dạy.

- Hãy hiểu chính mình, đó là lời Pythagoras.

Biết mình không có nghĩa mình là thần thánh. Hermes Trismegistưs nói.

Danh sách còn kéo dài…

Tất cả những lời dạy bí truyền của mọi thời đại đều cố gắng truyền tải ý tưởng duy nhất này. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Thế nhưng, loài người vẫn cứ tìm kiếm thiên đường để được thấy Chúa.

Giờ đây, nhận thức này trở thành điều mỉa mai cuối cùng đối với Langdon. Trong trạng thái hai mắt nhìn thẳng lên trời như tất cả những kẻ mù quáng của lịch sự, Robert Langdon đột nhiên nhìn thấy ánh sáng.

Nó giáng xuống anh như tia chớp từ trời.

Bí mật giấu

Trong Tổ Chức

Tám Quảng trường Franklin

Chỉ trong chốc lát, anh hiểu ra.

Thông điệp trên cái chóp đột nhiên rõ như ban ngày. Suốt buổi tối ý nghĩa của nó đã hiển hiện ngay trước mắt anh. Lời dặn trên cái chóp, cũng như trên Kim tự tháp Tam điểm, là một biểu hình - một mật mã chia thành từng mảnh - một thông điệp được viết thành nhiều phần. Ý nghĩa trên chóp vàng được nguỵ trang đơn giản đến mức Langdon không ngờ rằng anh và Katherine đều không nhận ra.

Càng ngạc nhiên hơn, Langdon còn vỡ lẽ rằng thông điệp trên cái chóp thực tế tiết lộ chính xác cách giải mã bảng biểu tượng ở phần đế kim tự tháp. Nó rất đơn giản. Đúng như lời Peter Solomon nói, chóp vàng là một bùa phép uy lực có sức mạnh lập lại trật tự từ hỗn loạn.

Langdon bắt đầu nện nắp hòm và gào lên:

- Tôi biết rồi! Tôi biết rồi!

Kim tự tháp đá lập tức bị nhấc bổng đi. Thay vào đó, gương mặt xăm trổ lại xuất hiện, đường nét rùng rợn của nó đăm đăm dõi xuống qua ô cửa sổ.

- Tôi giải được rồi - Langdon hét to - Cho tôi ra!

Gã đàn ông xăm trổ máy môi. Hai tai ngập nước của Langdon không nghe rõ gì cả, nhưng mắt anh nhìn thấy môi gã tạo thành hai từ. "Nói đi".

- Tôi sẽ nói - Langdon hét lớn, nước lấp xấp mắt anh - Thả tôi ra! Tôi sẽ giải thích mọi điều. - Rất đơn giản thôi.

Môi gã đàn ông lại nhúc nhích. "Nói ngay đi… hoặc là chết".

Làn nước đã dâng hết phần khoảng trống cuối cùng, Langdon hơi ngửa đầu ra sau để giữ cho miệng mình ở trên mép nước. Khi anh làm vậy, thứ chất lỏng âm ấm tràn vào mắt anh, khiến tầm nhìn của anh nhoà đi. Cong lưng, anh áp miệng vào ô cửa sổ Plexiglas.

Tận dụng mấy giây cuối cùng còn dưỡng khí, Robert Langdon tiết lộ bí mật cách giải mã Kim tự tháp Tam điểm.

Langdon dứt lời thì chất lỏng cũng dâng đến môi anh. Theo bản năng, Langdon hít lấy hơi thở cuối cùng và ngậm chặt miệng lại. Chỉ một thoáng sau, chất lỏng đã phủ kín người anh, chạm lên đến đỉnh ngôi mộ và tràn ra qua lớp Plexiglas.

° ° °

Hắn nghĩ ra thật, Mal’akh thừa nhận. Langdon đã nghĩ ra cách giải kim tự tháp.

Đáp án quá ư đơn giản. Quá ư rõ ràng.

Bên dưới ô cửa sổ, gương mặt ngập trong nước của Robert Langdon trừng trừng dõi vào gã với đôi mắt tuyệt vọng và khẩn khoản.

Mal’akh lắc đầu nhìn trả và rành rọt nhả từng từ.

- Cảm ơn Giáo sư. Hãy tận hưởng thế giới bên kia nhé!

--- ------ ------ ------ -------

1 Nguyên tác là Eight Franklin Square. Từ square vừa có nghĩa là quảng Trường, vừa có nghĩa là hình vuông - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 103

Là một người bơi lội rất cẩn thận. Robert Langdon thường tự hỏi cảm giác chết đuối là như thế nào. Giờ thì anh sắp trực tiếp trải nghiệm điều đó. Mặc dù có khả năng nín thở lâu hơn hầu hết mọi người, anh cũng cảm thấy cơ thể mình đang phản ứng với tình trạng thiếu dưỡng khí. Carbonic tích tụ dần trong máu kéo theo sự thúc giục bản năng phải hít vào. Không được thở! Mỗi khoảnh khắc qua đi phản xạ hít vào càng thêm dữ dội. Langdon biết rằng roi anh sẽ bị đẩy đến điểm tới hạn nín thở, đến thời khắc then chốt khiến người ta không thể cố tình nhịn hơi được nữa.

Mở nắp ra! Theo bản năng, Langdon muốn quẫy đạp, nhưng anh biết tốt hơn cả là không nên lãng phí chút dưỡng khí quý báu. Vì vậy anh chỉ đăm đăm nhìn qua làn nước phía trên mình và hy vọng. Thế giới bên ngoài giờ đây chỉ là mảng sáng lờ mờ phía trên ô cửa sổ bằng kính Plexiglas. Các cơ bắt đầu bỏng rát, Langdon biết mình đang rơi vào tình trạng giảm oxy huyết.

Đột nhiên, một gương mặt xinh đẹp và hư ảo xuất hiện, đăm đắm nhìn xuống anh. Đó là Katherine. Qua lớp chất lỏng, những đường nét dịu dàng của cô trông gần như thần tiên. Mắt họ giao nhau qua ô cửa sổ Plexiglas. Trong khoảng khắc, Langdon tưởng đâu mình được cứu sống. Katherine. Song tiếng gào hãi hùng tắc nghẹn của cô báo cho anh biết cô bị kẻ bắt cóc lôi đến đây. Con quái vật xăm trổ buộc cô phải chứng kiến bi kịch sắp xảy ra.

Katherine, xin lỗi…

Mắc kẹt dưới nước ở cái nơi tăm tối, kỳ lạ này, Langdon căng thẳng hiểu ra đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời anh.

Chỉ chốc lát nữa, anh sẽ không còn tồn tại… mọi thứ anh đang… đã hoặc sẽ có… đều chấm dứt. Khi não anh chết, mọi ký ức lưu giữ trong chất xám cùng tất cả những kiến thức anh thu nạp được sẽ tan biến trong một loạt phản ứng hoá học.

Lúc này, Robert Langdon nhận ra sự vô nghĩa thực sự của mình trong vũ trụ. Anh chưa bao giờ cảm thấy bản thân cô đơn và tâm thường đến thế. Cũng may, anh còn cảm nhận được điểm tới hạn nín thở đang đến gần.

Thời khắc đó tuỳ thuộc vào anh.

Buồng phổi Langdon rục rịch muốn tống chất thải ra ngoài và khao khát được hít vào. Nhưng Langdon cố duy trì lâu hơn nữa giây phút cuối cùng của đời mình. Tuy nhiên sau đó, như một con người không còn khả năng giữ nguyên tay trên bếp lò nóng bỏng, anh đành phó mặc cho số phận.

Phản xạ đã thắng lý trí.

Môi anh hé ra.

Phổi căng lên.

Và chất lỏng tràn vào.

Cơn đau ào tới lồng ngực ghê gớm hơn Langdon tưởng tượng nhiều Chất lỏng như thiêu như đốt ồng ộc xối vào phổi anh, cảm giác đau đớn xộc thẳng lên não, Langdon tưởng chừng đầu mình bị kẹp giữa một cái ê tô. Sấm nổ ùng ùng trong tai anh, xen lẫn với tiếng thét của Katherine Solomon.

Một tia chớp nháng lên chói loà.

Rồi tối sầm.

Robert Langdon đã chết.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 104

Thế là hết!

Katherine Solomon ngừng la hét. Cảnh chết đuối vừa chứng kiến khiến cô tê điếng rã rời vì choáng váng và tuyệt vọng.

Dưới ô cửa kính Plexiglas, đôi mắt đờ dại của Langdon trừng trừng nhìn qua cô vào khoảng không trống rỗng, nét mặt đông cứng đầy đớn đau và tiếc nuối. Chút không khí nhỏ nhoi cuối cùng sủi lên khỏi khuôn miệng vô hồn của anh, rồi, như đã chấp nhận từ bỏ cõi đời, vị Giáo sư Harvard từ từ chìm xuống đáy hòm và biến mất trong bóng tối.

Anh ấy chết rồi. Katherine thấy lòng tê tái.

Gã đàn ông xăm trổ cúi mình, đóng nắp ô cửa sổ lại bằng một động tác dứt khoát, che kín thi thể của Robert Langdon.

Xong xuôi, gã mỉm cười với Katherine.

- Đến lượt chúng ta chứ?

Không để Katherine kịp phản ứng, gã xốc luôn người phụ nữ đau khổ lên vai, tắt đèn và mang cô ra khỏi phòng. Chỉ bằng vài sải chân mạnh mẽ, gã đưa cô tới cuối hành lang, bước vào một không gian rộng rãi ngập tràn ánh sáng đỏ tía và phảng phất hương trầm. Gã đàn ông vác Katherine tới chiếc bàn vuông chính giữa phòng, thả phịch cô xuống. Mặt bàn cứng và khá lạnh. Bằng đá chăng? Katherine gắng trấn tĩnh lại. Bấy giờ, gã kia tháo dây trói khỏi tay và chân cô. Theo bản năng Katherine cố đạp gã ra, nhưng tay chân bị chuột rút nên không thuận theo ý cô. Gã đàn ông dùng những dải đai da to tướng trói Katherine vào bàn, dải thứ nhất vắt ngang đau gối, dải thứ hai thắt ở hông làm hai tay cô kẹp cứng bên sườn, dải cuối cùng kéo qua ức cô, ngay phía trên ngực.

Tất cả chỉ mất vài phút, lại một lần nữa Katherine không cựa quậy được. Cổ tay và mắt cá chân cô bắt đầu co bóp do máu lưu thông trở lại.

Gã đàn ông liếm đôi môi xăm trổ và thì thào.

- Há miệng ra!

Katherine nghiến chặt răng vẻ khiếp hãi.

Gã đàn ông lại giơ ngón tay trỏ và từ từ rê quanh môi người phụ nữ khiến cô nổi da gà. Katherine nghiến răng chặt hơn. Gã đàn ông cười khùng khục, đoạn dùng tay kia lần tìm một huyệt trên cổ cô và xoáy mạnh. Miệng Katherine liền há ra. Gã liền lùa ngón tay vào và khua khoắng dọc theo lưỡi khiến Katherine phát ọe, cô toan cắn mạnh, nhưng ngón tay đã rút ra. Vẫn cười nhăn nhở, gã đàn ông giơ ngón tay ướt đẫm lên trước mặt cô, rồi nhắm mắt và lại xoa chỗ nước bọt lên vòng tròn trắng trơn trên đỉnh đầu.

Xong xuôi, gã thở dài và từ từ mở mắt, quay mình rời khỏi căn phòng với vẻ thản nhiên kỳ quái.

Sự im lặng đột ngột ngập tràn, Katherine nghe rất rõ tim mình đập mạnh. Ngay phía trên cô, một loạt bóng đèn lạ lùng dường như đang chuyển từ gam đỏ tía sang son thẫm, soi tỏ phần trần rất thấp của gian phòng. Ngó thấy trần nhà, cô trợn mắt kinh ngạc. Chỗ nào cũng phủ kín hình vẽ. Bộ sưu tập dị thường ấy chừng như muốn mô tả một thiên hà. Những ngôi sao, chòm sao và hành tinh nằm lẫn lộn với các biểu tượng, sơ đồ và công thức chiêm tinh học. Có mười hai con giáp, có những mũi tên dự báo quỹ đạo hình ô van và những biểu tượng kỷ hà thể hiện các góc thăng thiên, tất cả trừng trừng nhìn xuống Katherine. Trông y như bích hoạ Nhà nguyện Sistine 1 thể hiện qua bàn tay một nhà khoa học điên rồ.

Katherine xoay đầu nhìn đi chỗ khác, nhưng bức tường bên trái cô cũng không khá khẩm hơn bao nhiêu. Sàn nhà kiểu trung cổ thắp một dãy nến chập chờn, soi lên bức tường găm kín văn bản, ảnh, và hình vẽ. Có vài tờ trông như giấy cói papyrus hoặc giấy da xé ra từ những cuốn sách cổ, một số khác trông mới hơn, nằm xen lẫn với những bức ảnh, hình vẽ, bản đồ và biểu đồ. Tất cả đều được đính lên tường một cách rất cẩn thận. Nhiều sợi dây kết thành mạng lưới ghim ngang qua chúng, liên kết chúng một cách hỗn độn rối mù.

Katherine lại ngoảnh đầu ngó sang phía khác.

Thật không may, phía này mới là cảnh tượng kinh hãi nhất.

Ngay sát phiến đá nơi cô đang bị trói là một chiếc bàn nhỏ giống kiểu bàn đựng y cụ thường gặp trong phòng mổ bệnh viện. Trên bàn bày cả loạt đồ đạc, trong số đó có một bơm tiêm, một ống chất lỏng sẫm màu… và một con dao rất lớn với cán bằng xương lưỡi bằng thép mài sáng loáng.

Lạy Chúa… hắn định làm gì mình đây?

--- ------ ------ ------ -------

1 Nhà nguyện Sistine là nhà nguyện nổi tiếng nhất thuộc Dinh Giáo hoàng, nơi ở chính thức của Giáo hoàng tại Vatican. Nó nổi tiếng với kiến trúc và phần trang trí dưới dạng tranh tường do những hoạ sĩ Phục hưng vĩ đại nhất thực hiện, trong đó có Michelangelo, Raphael, Bernini, và Sandro Botticelli. Dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng Julius II, Michelangelo đã vẽ toàn bộ 1.100 m2 trần nhà nguyện trong khoảng thời gian từ 1508 đến 1512, trong đó có những kiệt tác như Ngày phán xét cuối cùng, Sáng tạo Adam - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 105

Chuyên gia an ninh hệ thống CIA Rick Parrish nhảy bổ vào văn phòng Nola Kaye, mang theo độc một tờ giấy.

- Làm gì mà lâu thế? - Nola hỏi. Tôi bảo anh xuống đây ngay lập tức cơ mà?

- Xin lỗi, - anh ta nói, đẩy cặp kính dày như đít chai trên sống mũi dài của mình - Tôi cố tìm thêm thông tin cho cô, nhưng…

- Cứ cho tôi xem những gì anh có là được.

Parrish đưa cho cô một bản in.

- Đây là một văn bản đã lọc thông tin, cứ xem đi, cô sẽ hiểu ngay nguyên nhân thôi.

Nola kinh ngạc lướt mắt qua trang giấy.

- Tôi vẫn cố hình dung xem một hacker truy cập vào như thế nào, - Parrish nói - nhưng hình như một con nhện đã chiếm đoạt một trong những lệnh tìm kiếm của chúng ta…

- Quên chuyện đó đi! - Nola buột miệng, ngước mắt khỏi trang giấy - CIA đang làm cái quỷ gì với một tệp tin mật nói về kim tự tháp, cổng cổ và các biểu hình chạm khắc nhỉ?

- Đó chính là điều khiến tôi mất thời gian. Tôi đã cố tìm hiểu xem tài liệu nào đang bị truy tầm, cho nên tôi dò theo đường dẫn của tệp tin - Parrish hắng giọng, ngập ngừng - Hoá ra tài liệu này nằm trong khu vực dành riêng cho… chính Giám đốc CIA.

Nola xoay lại, trợn mắt vẻ nghi hoặc. Sếp của Sato có một tệp tin về Kim tự tháp Tam điểm ư? Cô biết rằng Giám đốc đương nhiệm, cùng với nhiều lãnh đạo chóp bu khác của CIA, là hội viên Tam điểm cao cấp, nhưng cô không thể tưởng tượng nổi bất kỳ ai trong số họ lại lưu giữ các bí mật của Hội trên một máy tính CIA.

Nhưng sau đó, xét lại những gì cô vừa chứng kiến trong vòng hai mươi tư giờ qua thì chẳng có gì là không thể cả.

° ° °

Đặc vụ Simkins nằm sấp, thu mình trong đám bụi cây ở Quảng trường Franklin, mắt dán chặt lên lối vào giữa hai hàng cột của Đền thánh Almas. Chẳng thấy gì. Không chút ánh sáng lọt ra ngoài, cũng chẳng ai tiến vào bên trong. Anh ngoảnh đầu ngó Bellamy. Ông ta đang đi đi lại lại một mình giữa công viên, trông có vẻ lạnh. Thực sự lạnh. Simkins nhận ra ông run rẩy và rùng mình.

Bộ đàm của anh rung. Đó là Sato.

- Đối tượng của chúng ta trễ hẹn bao lâu rồi? - bà hỏi.

Simkins kiểm tra đồng hồ bấm giờ.

- Hắn bảo hai mươi phút. Giờ đã gần bốn mươi phút. Nghe chừng không ổn.

- Hắn không đến, - Sato nói - Kết thúc rồi.

Simkins biết bà ta nói đúng.

- Có tin gì của Hartmann không?

Không, từ lúc đi Kalorama Heights chẳng thấy cậu ta báo cáo về.

- Tôi không sao gọi được cậu ấy.

Simkins sững người. Nếu đúng như vậy thì chắc chắn có chuyện bất ổn thật.

- Tôi vừa gọi cho nhóm hỗ trợ tác chiến, - Sato nói - họ cũng không thể tìm thấy cậu ta.

- Chết tiệt! Họ có xác định được vị trí GPS của chiếc Escalade không?

- Có. Một địa chỉ nhà riêng ở Kalorama Heights - Sato nói - Gom người của anh lại đi. Chúng ta rút thôi.

° ° °

Sato tắt điện thoại và phóng mắt về đường chân trời của thủ đô.

Một cơn gió lạnh lẽo quất qua tấm áo khoác mỏng, khiến bà phải khoanh tay vào mình để giữ hơi ấm. Giám đốc Inoue Sato không phải là tuýp phụ nữ dễ ớn lạnh… hay sợ sệt. Nhưng lúc này, trong bà có cả hai cảm giác đó.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 106

Mặc độc chiếc khố lụa, Mal’akh phóng lên lối dốc, đi qua cánh cửa thép và bước ra phòng khách qua bức tranh. Ta cần chuẩn bị thật nhanh. Gã liếc xác chết của tay đặc vụ CIA nơi tiền sảnh. Căn nhà này không còn an toàn nữa.

Một tay cầm chiếc kim tự tháp đá, Mal’akh bước thẳng tới phòng đọc sách ở tầng 1 và ngồi xuống bên chiếc máy tính xách tay. Vừa đăng nhập, gã vừa nghĩ đến Langdon ở dưới nhà và tự hỏi phải bao nhiêu ngày hoặc tuần nữa người ta mới phát hiện ra xác chết ngâm nước trong tầng hầm bí mật. Nhưng cũng chẳng có gì khác cả. Khi đó Mal’akh đã cao chạy xa bay rồi.

Langdon thực hiện vai trò của mình rất… xuất sắc.

Anh không chỉ ráp các phần của Kim tự tháp Tam điểm mà còn nghĩ ra cách giải bảng biểu tượng bí hiểm dưới đế. Thoạt nhìn, tưởng chừng không thể giải mã nổi những biểu tượng ấy… nhưng câu trả lời rất đơn giản… hiện rõ ngay trước mặt họ.

Máy tính bắt đầu hoạt động, màn hình hiển thị chính bức thư điện tử gửi đến lúc trước: tấm ảnh chụp chóp vàng phát sáng, một phần bị ngón tay của Warren Bellamy che đi.

Tám… quảng trường Franklin… Katherine đã cho Mal’akh biết như vậy. Cô cũng thừa nhận đám đặc vụ CIA đang phục kích ở Quảng trường, hy vọng tóm được Mal’akh và cố đoán xem cái chóp muốn ám chỉ tổ chức nào. Hội Tam điểm? Hiệp sĩ Đền thánh? Thập tự Hoa hồng?

Không phải tổ chức nào trong số đó hết!, giờ thì Mal’akh hiểu rõ như vậy. Langdon đã nhìn ra sự thật! Mười phút trước, khi chất lỏng dâng quanh mặt, vị Giáo sư Harvard đã đoán được chìa khoá để giải cái kim tự tháp.

- Ô vuông Franklin bậc tám! - anh đã hét to như vậy, vẻ khiếp hãi ngập tràn ánh mắt - Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám!

Thoạt đầu. Mal’akh không hiểu.

- Đó không phải là một địa chỉ! - Langdon hét, miệng áp chặt vào ô cửa sổ kính Plexiglas - Ô vuông Franklin bậc tám! Đó là một ma phương - Sau đó anh nhắc đến Albrecht Durer… và giải thích cách dùng mật mã đầu tiên của kim tự tháp làm manh mối phá giải mật mã cuối cùng.

Mal’akh rất quen thuộc với các ma phương, hay kameas như cách gọi của các tín đồ chủ nghĩa thần bí sơ khai. Văn bản cổ Triết học Thần bí từng mô tả tỉ mỉ sức mạnh huyền diệu của ma phương cũng như cách thức thiết kế những con dấu quyền năng dựa trên hệ thống các chữ số kỳ ảo ấy, và Langdon nói rằng chìa khoá giải mã phần đế kim tự tháp nằm trong một ma phương…

- Anh cần một ma phương mỗi chiều tám ô! - vị Giáo sư hét to, môi anh là phần cơ thể duy nhất còn nhô lên khỏi chất lỏng - Các ma phương được xếp loại theo bậc! Một hình vuông mỗi chiều ba ô là "bậc ba"! Một hình vuông mỗi chiều bốn ô là "bậc bốn!" Anh cần một hình vuông "bậc tám"!

Chất lỏng sắp sửa nhấn chìm Langdon, vị Giáo sư hít lấy hơi thở tuyệt vọng cuối cùng và hét nốt điều gì đó về một hội viên Tam điểm nổi tiếng… người sáng lập nước Mỹ… nhà khoa học, thần bí chủ nghĩa, nhà toán học, nhà phát minh… cũng là người sáng tạo ra ma phương kỳ lạ mang tên ông cho đến ngày nay.

Franklin.

Chỉ nháy mắt. Mal’akh biết Langdon đã nói đúng.

Giờ đây, nín thở đầy hi vọng, gã ngồi trên gác bên chiếc máy tính của mình, thực hiện một lệnh tìm kiếm nhanh trên web, nhận được hàng chục kết quả, chọn lấy một và bắt đầu đọc.

Ô VUÔNG FRANKLIN BẬC TÁM

Một trong những ma phương nổi tiếng nhất lịch sử là ma phương bậc tám do nhà khoa học Mỹ Benjamin Franklin công bố năm 1769. Nó nổi tiếng nhờ bao gồm cả các "phép tổng đường chéo" hoàn toàn mới mẻ. Nỗi ám ánh của Franklin với hình thức nghệ thuật thần bí này chắc chắn bắt nguồn từ niềm tin vào chiêm tinh, từ mối liên hệ cá nhân của ông với các nhà giá kim và nhà thần bí chú nghĩa nổi bật đương thời, tất cả là nền tảng cho những dự đoán công bố trong cuốn Niên giám của Richard tội nghiệp.

Mal’akh nghiên cứu sáng tạo nổi tiếng của Franklin, xem xét cách bố trí có một không hai các con số từ 1 đến 64, trong đó mỗi hàng, cột, và đường chéo đều cho cùng một hằng số kỳ lạ. Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám.

Mal’akh mỉm cười. Run lên vì phấn khích, gã vớ lấy kim tự tháp đá và lật nghiêng nó để xem xét phần đế.

Sáu mươi tư biểu tượng này cần được tổ chức lại và sắp xếp theo một trật tự khác, căn cứ theo các con số trong ma phương của Franklin. Mal’akh không thể hình dung được làm thế nào mà bảng biểu tượng hỗn độn này tạo thành ý nghĩa khi sắp xếp theo một trật tự khác, nhưng gã rất tin tưởng vào lời hứa hẹn cổ xưa.

Ordo ab chao.

Tim đập rộn lên, gã lôi ra một tờ giấy và nhanh nhẹn vẽ một bảng mỗi chiều tám ô. Sau đó, gã bắt đầu điền các biểu tượng, lần lượt từng cái một, vào vị trí theo định nghĩa mới của chúng. Gần như ngay lập tức, trước sự kinh ngạc của gã, bảng biểu tượng bắt đầu bộc lộ ý nghĩa.

Trật tự từ hỗn loạn! Giải mã xong, Mal’akh nghi hoặc nhìn đáp án trước mặt. Một hình ảnh ấn tượng đã định hình. Cái mớ lộn xộn đã được biến cải… tổ chức lại… và mặc dù Mal’akh không thể nắm được ý nghĩa của toàn bộ thông điệp nhưng gã đủ hiểu… đủ để biết chính xác bây giờ cần đi về đâu.

Kim tự tháp chỉ đường.

Bảng biểu tượng trỏ tới một trong những địa điểm bí ẩn vĩ đại của thế giới. Thật không tin nổi, đó cũng chính là nơi hoàn tất hành trình mà Mal’akh luôn mơ ước.

Đúng là số phận.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 107

Mặt bàn đá lạnh ngắt dưới lưng Katherine Solomon.

Tâm trí cô tiếp tục bị giày vò vì cảnh chết đuối hãi hùng của Robert, kéo theo những liên tưởng về người anh trai. Peter cũng chết rồi chăng? Con dao kỳ lạ trên chiếc bàn gần đó khơi gợi thêm nhiều hình ảnh về số phận tương tự đang chờ đợi cô.

Thế là hết thật rồi ư?

Kỳ lạ thay, dòng suy tư đột ngột đưa Katherine quay về với nghiên cứu… về Lý trí học… và những đột phá gần đây. Tất cả đều đã chấm dứt… đã tan thành mây khói. Cô không thể chia sẻ với thế giới về những khám phá của mình được nữa. Phát kiến chấn động nhất mới diễn ra cách đây vài tháng, kết quả thu được có khả năng tái định hướng suy nghĩ của con người về cái chết. Lạ lùng thay, cô cảm thấy khuây khoả khi hồi tưởng thí nghiệm đó.

Khi còn là một thiếu nữ, Katherine Solomon thường tự hỏi liệu có cuộc sống sau khi chết không. Thiên đường có tồn tại không? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta chết đi? Khi trưởng thành hơn, nhờ nghiên cứu khoa học, cô nhanh chóng xoá bỏ các khái niệm kỳ quái về thiên đường, địa ngục hoặc thế giới bên kia… dần dần đi đến chỗ chấp nhận rằng khái niệm "cuộc sống sau khi chết" là sự tưởng tượng, là một câu chuyện thần tiên được tạo ra để xoa dịu sự thật hãi hùng rằng chúng ta không thể nào sống mãi.

Hay chính mình tin như vậy…

Một năm trước, Katherine và anh trai cô đã thảo luận về vấn đề dai dẳng nhất trong triết học, đó là sự tồn tại của linh hồn con người, đặc biệt là liệu con người có sở hữu một loại ý thức nào đó đủ khả năng ton tại bên ngoài cơ thể hay không.

Cả hai anh em đều cho rằng rất có thể tồn tại một dạng linh hồn như vậy, hầu hết các triết lý cổ xưa cũng tán thành quan điểm của họ. Phật giáo và Bà la môn giáo đều xác nhận thuyết luân hồi, tức quá trình đầu thai của linh hồn vào một cơ thể mới sau khi chết. Những người theo trường phái Platon định nghĩa cơ thể như một "nhà tù" nơi linh hồn thoát ra, còn phái khắc kỷ gọi linh hồn là apospasma tou theu - "một phân tử của Chúa" - và tin rằng nó được Chúa triệu hồi ngay khi rời bỏ thể xác.

Katherine nhận thức được rằng sự tồn tại của linh hồn con người có lẽ là một khái niệm sẽ chẳng bao giờ chứng minh được về mặt khoa học. Việc xác nhận rằng ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể con người sau khi chết cũng mong manh như phả ra một làn khói và hy vọng vài năm sau tìm lại được nó.

Sau cuộc thảo luận này, Katherine nảy ra một ý định lạ lùng. Anh trai cô đề cập đến cuốn Sáng thế ký, trong đó mô tả linh hồn là Neshemah - một dạng "tri thức" tinh thần hoàn toàn tách biệt với cơ thể. Katherine hiểu rằng từ tri thức ngụ ý sự hiện diện của tư duy.

Theo Lý trí học thì tư duy có khối lượng, và vì thế, linh hồn con người có thể cũng có khối lượng.

Liệu mình có cân được linh hồn một con người không?

Dĩ nhiên, ý tưởng đó là không thể… hoặc thậm chí còn rất vớ vẩn.

Nhưng ba ngày sau, Katherine đột nhiên tỉnh giấc khi đang say ngủ và ngồi bật dậy trên giường. Cô vùng dậy, phóng xe tới phòng thí nghiệm và bắt đầu thiết kế một phép thử đơn giản đến kỳ lạ… mà táo bạo đến đáng sợ.

Cô chưa rõ liệu có tác dụng không, nên quyết định giấu Peter cho đến khi công việc hoàn tất. Bốn tháng sau, cuối cùng Katherine cũng dẫn anh trai tới phòng thí nghiệm. Cô đẩy ra một thiết bị khá đồ sộ vẫn giấu kín trong nhà kho phía sau.

- Em tự thiết kế và chế tạo đấy - cô khoe khi cho Peter xem phát minh của mình - Anh có đoán được gì không? Anh trai cô chăm chú nhìn cỗ máy kỳ lạ.

- Một cái lồng ấp à?

Katherine lắc đầu cười, mặc dù đó là một phán đoán khá hợp lý. Cỗ máy thực sự trông hơi giống loại lồng ấp dành cho trẻ sơ sinh thiếu tháng thường thấy trong các bệnh viện. Tuy nhiên, cỗ máy này vừa với cả kích thước của người lớn, nó là một cái kén dài bằng nhựa trong, kín hơi, trông như một loại túi ngủ hiện đại, đặt trên một thiết bị điện tử rất lớn.

- Để xem thứ này có giúp anh đoán ra không nhé. - Katherine nói và cắm điện. Một màn hình điện tử trên cỗ máy bật sáng. Katherine bấm phím, các con số nhảy nhót một lúc rồi dừng ở:

0,0000000000 kg

- Cân à? - Peter hỏi, vẻ mặt đầy thắc mắc.

- Không phải cân thường - Katherine nhặt mẩu giấy nhỏ xíu trên chiếc bàn gần đó và nhẹ nhàng thả nó lên chốc cái kén. Các con số trên màn hình lại nhảy nhót và sau đó dừng lại ở một thông số mới.

0,0008194325 kg

- Mà là cân tiểu ly có độ chính xác cao - cô giải thích - Độ chính xác đến vài microgram.

Peter vẫn rất bối rối.

- Em chế tạo một chiếc cân chính xác cao để… cân người à?

- Chính xác - Katherine nhấc cái nắp trong suốt của cỗ máy lên - Nếu em đặt một người vào trong cái kén này và đóng nắp lại, người ấy sẽ nằm trong một hệ thống đóng kín hoàn toàn. Không gì có thể lọt vào hay lọt ra, dù là không khí, chất lỏng, hay phân tử bụi. Cũng chẳng có gì thoát được hết, dù là hơi thở, mồ hôi bay hơi hay chất dịch của cơ thể…

Peter luồn tay vào mái tóc bạc rất dày, một cử chỉ biểu lộ tâm trạng bồn chồn giống hệt Katherine.

- Hừm… rõ ràng là nằm trong đó người ta sẽ chết nhanh hơn.

Katherine gật đầu.

Khoảng sáu phút, tuỳ thuộc vào nhịp hô hấp của họ.

Peter quay sang cô.

- Anh vẫn chưa hiểu.

- Rồi anh sẽ hiểu - Katherine mỉm cười.

Để cỗ máy lại đó, cô dẫn anh trai tới phòng điều khiển, cho ông ngồi xuống trước bức tường plasma. Cô bắt đầu nhập số liệu và truy cập một loạt tệp tin video lưu trữ trong các ổ đĩa đa sao lưu toàn ảnh.

Bức tường plasma nhấp nháy sáng, chiếu ra những hình ảnh trông giống một thước phim tự quay ở nhà.

Máy quay lia ngang một phòng ngủ giản dị với chiếc giường bừa bộn, những chai thuốc, một máy thở và một màn hình theo dõi tim.

Peter băn khoăn xem đoạn phim, hướng quay di chuyển và cuối cùng dừng lại ở chiếc cân của Katherine nằm gần chính giữa phòng ngủ.

Peter mở to mắt.

- Cái gì…?

Nắp kén trong suốt mở toang, một ông già đeo mặt nạ dưỡng khí lằm bên trong. Bà vợ già của ông cùng một nhân viên tang lễ đứng cạnh đó. Ông già thở rất khó nhọc, hai mắt nhắm nghiền.

- Người nằm trong kén là một giảng viên khoa học của em ở Yale, - Katherine nói - ông ấy và em vẫn liên hệ với nhau suốt nhiều năm qua. Ông ốm rất nặng, và thường nói muốn hiến tặng cơ thể mình cho khoa học, vì thế khi em giải thích ý tưởng về thí nghiệm này, ông lập tức bằng lòng tham gia.

Peter nín lặng vì sửng sốt, tiếp tục theo dõi cảnh tượng đang diễn ra.

Lúc ấy, nhân viên tang lễ quay sang người vợ.

- Đến giờ rồi. Ông ấy đã sẵn sàng.

Bà cụ chấm chấm đôi mắt đẫm lệ và gật đau với vẻ bình tĩnh đến cương quyết.

- Vâng.

Rất nhẹ nhàng, nhân viên tang lễ tiến lại bên cái kén và gỡ mặt nạ dưỡng khí của ông cụ. Ông hơi nhúc nhích, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Nhân viên tang lễ đẩy hết máy trợ thở và các thiết bị khác sang một bên, để ông cụ nằm suông trong cái khoang ở giữa phòng.

Vợ của người hấp hối tiến đến gần, cúi xuống, và nhẹ nhàng hôn lên trán chồng mình. Ông già vẫn không mở mắt, nhưng môi ông động đậy, rất khẽ khàng, thoáng hiện một nụ cười yêu thương.

Không còn mặt nạ dưỡng khí, nhịp thở của ông cụ càng trở nên khó nhọc. Phút cuối đang đến rất gần. Với nghị lực và thái độ bình tĩnh đáng nể, vợ ông chậm rãi hạ cái nắp trong suốt và và đóng kín lại đúng như Katherine đã hướng dẫn.

Peter hoảng hốt giật lui.

- Katherine, vì Chúa, sao lại như thế chứ?

- Không sao đâu, - Katherine hạ giọng - Có đủ dưỡng khí trong khoang mà.

Cô đã xem đoạn video này hàng chục lần, nhưng lần nào xem lại cũng thấy hồi hộp như nhau. Cô trỏ bàn cân bên dưới cái khoang đóng kín của người hấp hối. Thông số điện tử hiển thị:

51,4534644 kg

Đó là trọng lượng cơ thể ông ấy, - Katherine giải thích.

Nhịp thở của ông cụ trở nên gấp gáp. Peter sửng sốt nhích tới trước.

- Ông cụ bằng lòng thế mà - Katherine thì thầm - Hãy xem diễn biến tiếp theo nhé!

Bà vợ bước lùi lại, ngồi xuống giường và im lặng nhìn nhân viên lễ tang.

Trong thời gian sáu mươi giây tiếp theo, nhịp hô hấp của ông cụ rất nông và cứ dồn dập dần, rồi đột nhiên, như thê đã tự lựa chọn thời điểm từ giã cõi đời, ông ngừng thở.

Mọi chuyện chấm dứt.

Không còn gì xảy ra nữa.

Peter đợi tiếp vài giây, đoạn liếc nhìn Katherine với vẻ thắc mắc rõ rệt.

Hãy cứ đợi đi, cô nghĩ, hướng ánh mắt Peter trở lại với màn hình điện tử vẫn âm thầm toả sáng, cho biết trọng lượng của người đã khuất.

Rồi sự lạ diễn ra.

Đang lặng lẽ theo dõi. Peter thình lình nhảy lui, gần như ngã ra khỏi ghế.

- Nhưng… đó là… - ông sững sờ đưa tay che miệng - Anh không thể.

Rất hiếm khi Peter Solomon vĩ đại mất bình tĩnh đến mức không thốt lên lời. Lần đầu chứng kiến hiện tượng xảy ra, phản ứng của Katherine cũng y hệt như ông vậy.

Một lúc sau khi ông cụ qua đời, các con số trên cân đột ngột giảm xuống. Ông cụ nhẹ đi sau khi chết. Sự thay đổi về trọng lượng là rất nhỏ, nhưng vẫn đo đếm được… và các chỉ số thực sự gây chấn động.

Katherine nhớ rằng cô đã run rẩy viết vào sổ nhật ký phòng thí nghiệm: "Khi con người chết đi, dường như có một thứ "vật chất" vô hình thoát ngay ra khỏi cơ thể họ. Trọng lượng của nó là định lượng được và không hề bị ngăn cản bởi các rào cản vật lý. Tôi phải thừa nhận rằng nó di chuyển theo một chiều mà tôi chưa lý giải nổi".

Qua vẻ choáng váng trên gương mặt anh trai mình. Katherine biết rằng ông đã hiểu ý nghĩa của thí nghiệm.

- Katherine… - Peter lắp bắp, hấp háy đôi mắt xám như muốn bảo đảm rằng mình không hề nằm mơ - Anh nghĩ em vừa cân được linh hồn con người.

Tiếp đó là sự im lặng kéo dài giữa hai anh em.

Katherine cảm thấy Peter đang cố lĩnh hội những thực tế phi thường và rõ rệt. Sẽ cần thời gian. Nếu hiện tượng họ vừa mục kích phản ánh đúng bản chất sự việc - chứng tỏ linh hồn, ý thức hoặc sinh lực có thể thoát ra ngoài cơ thể - thì xem như đã có ánh sáng soi rọi vô vàn câu hỏi bí ẩn về luân hồi, ý thức vũ trụ, cảm giác cận kề cái chết, dự đoán các vì sao, thần giao cách cảm, mơ trong lúc tỉnh táo, vân vân. Trên các tạp chí y học đầy rẫy những câu chuyện về các bệnh nhân chết trên bàn mổ tự nhìn xuống và trông thấy cơ thể họ, rồi sau đó được cứu sống trở lại.

Peter im lặng. Katherine thấy lệ ông ông trong mắt ông. Cô hiểu.

Cô cũng khóc. Họ đã mất đi những người thân yêu, và với bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh tương tự, những tín hiệu mong manh về linh hồn bất diệt của con người sẽ mang lại cho họ đôi chút hy vọng.

Nhận ra vẻ u sầu sâu thẳm trong mắt Peter, Katherine nghĩ, Anh ấy đang nhớ đến Zachary. Bao năm qua, Peter mang bên lòng gánh nặng trách nhiệm về cái chết của con trai mình. Đã nhiều lần, ông tâm sự với Katherine rằng việc bỏ lại Zachary trong tù là sai lầm tồi tệ nhất đời ông, và ông sẽ không bao giờ tìm cách tha thứ cho bản thân.

Tiếng cửa đóng sầm khiến Katherine chú ý, và đột nhiên cô trở lại gian hầm, nằm trên chiếc bàn đá lạnh lẽo. Sau khi sập cửa sắt rõ mạnh, gã đàn ông xăm trổ lại từ đầu dốc đi xuống. Katherine nghe tiếng chân gã bước vào một trong những căn phòng dọc hành lang, lục đục một lúc bên trong, sau đó lại quay ra để tới phòng của cô. Khi gã bước vào, cô trông thấy gã đẩy theo một thứ gì đó… khá nặng nề… trên những bánh xe. Khi tất cả lọt vào vùng ánh sáng, Katherine trợn mắt nghi hoặc. Gã đàn ông xăm trổ đang đẩy một người ngồi trên xe lăn.

Về mặt trí tuệ, não bộ của Katherine nhận ngay ra người ấy. Về mặt tình cảm, tâm trí cô xáo động vì hình ảnh đang chứng kiến.

- Anh Peter đấy ư?

Cô không biết nên vui mừng vì anh trai mình vẫn còn sống… hay kinh hãi. Cơ thể của Peter bị cạo sạch sẽ. Mái tóc bạc dày dặn của ông biến sạch, lông mày cũng vậy, làn da nhẵn nhụi ánh lên như thể đã được thoa dầu. Ông khoác một chiếc áo choàng lụa màu đen. Chỗ vị trí bàn tay phải của ông giờ chỉ còn cẳng tay, quấn trong một dải băng sạch sẽ, mới tinh. Ông đau đớn nhìn cô em gái, ánh mắt đong đầy ân hận và day dứt.

- Anh Peter! - Katherine nấc lên.

Peter cố nói nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ. Katherine nhận ra ông bị trói vào xe lăn và bị nhét giẻ vào miệng.

Gã đàn ông xăm trổ cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ lớp da đầu cạo nhẵn thín của Peter.

- Tôi đã chuẩn bị cho anh trai bà một vinh dự lớn lao. Đêm nay ông ấy có một vai phải đóng.

Toàn thân Katherine cứng đờ. Không…

- Peter và tôi sẽ đi bây giờ, nhưng tôi nghĩ hai người muốn tạm biệt nhau.

- Anh định đưa anh ấy đi đâu? - Katherine yếu ớt hỏi.

Gã đàn ông mỉm cười.

- Peter và tôi phải tới ngọn núi thiêng. Đó là nơi kho báu toạ lạc. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ rõ địa điểm đó. Bạn của bà, Robert Langdon, rất hữu dụng.

Katherine nhìn sâu vào mắt anh trai.

- Hắn đã giết… Robert.

Nét mặt Peter rúm ró vì thống khổ, và ông lắc đầu lia lịa, cứ như thể không chịu đựng nổi nỗi đau nào nữa.

- Thôi, thôi Peter, - gã kia nói và lại xoa đầu người đàn ông - Đừng để chi tiết này phá hỏng thời khắc quan trọng. Hãy tạm biệt cô em gái nhỏ bé của ông đi. Đây là lần đoàn tụ gia đình cuối cùng của ông đấy.

Katherine cảm thấy tâm trí mình như muốn bùng nổ vì tuyệt vọng.

- Tại sao anh lại hành động như thế? - cô gào lên - Chúng tôi đã làm gì anh chứ? Cơn cớ nào khiến anh thù ghét gia đình tôi đến vậy?

Gã đàn ông xăm trổ bước lại và kề miệng sát tai cô.

- Tôi có lý do của mình, Katherine ạ - Gã bước tới bàn dụng cụ và nhấc con dao kỳ lạ lên. Gã mang nó tới chỗ Katherine và liếc lưỡi dao sáng quắc qua má cô - Đây là con dao nổi tiếng nhất trong lịch sử.

Katherine chẳng biết con dao nổi tiếng nào cả, nhưng quả thực con dao này trông rất cổ xưa và đầy hăm doạ. Lưỡi thép sắc lém.

- Đừng lo, - gã nói - Tôi không có ý định phí phạm uy lực của nó với bà đâu. Tôi để dành nó cho một sự hy sinh đáng giá hơn… tại một địa điểm thiêng liêng hơn - Gã quay sang anh trai cô - Peter, ông có nhận ra con dao này không?

Đôi mắt Peter mở to, nỗi sợ hãi pha lẫn vẻ hoài nghi.

- Phải, Peter, cổ vật này vẫn tồn tại. Tôi giành được nó với cái giá rất cao… và để dành nó cho ông. Cuối cùng thì hai ta cũng cùng nhau chấm dứt hành trình khó nhọc này.

Dứt lời, gã cẩn thận bọc lưỡi dao vào một tấm vải cùng với tất cả những món đồ khác - hương thơm, một ống chất lỏng, những tấm vải sa tanh trắng, và những lễ vật. Sau đó, gã đặt gói đồ đã bọc kỹ vào chiếc túi da của Robert Langdon cùng Kim tự tháp Tam điểm và cái chóp. Katherine tuyệt vọng nhìn lên. Gã kia kéo khoá chiếc túi của Langdon và quay sang anh trai cô, thả cái túi nặng trịch vào lòng ông.

- Mang theo thứ này nhé?

Tiếp đó, gã bước tới ngăn kéo và bắt đầu lục tìm. Katherine nghe rõ tiếng đồ vật kim loại va lanh canh. Sau đó gã đàn ông trở lại, nhấc cánh tay phải của cô và giữ chặt trong giây lát. Katherine không nhìn thấy hành động của gã, nhưng rõ ràng là Peter chứng kiến hết thảy, vì ông lại vùng vẫy dữ dội.

Đột nhiên, Katherine cảm thấy đau nhói ở khoeo tay phải, và một cảm giác âm ấm kỳ lạ chạy dọc quanh đó. Peter vẫn đang phát ra những âm thanh khổ não, tắc nghẹn và cố gắng một cách vô ích để thoát khỏi cái xe lăn nặng nề. Cảm giác tê lạnh lan khắp cánh tay và các đầu ngón tay Katherine, khi gã kia bước sang bên, cô mới hiểu tại sao anh trai mình kinh hãi đến thế. Gã đàn ông vừa cắm một cây kim tiêm vào ven Katherine như thể cô đang hiến máu vậy. Tuy nhiên, cây kim không gắn vào một đường ống. Thay vào đó, dòng máu đang chảy ra ngoài… lăn dọc khuỷu tay, cánh tay Katherine và tràn ra mặt bàn đá.

- Một chiếc đồng hồ cát bằng xương bằng thịt. - gã nói và quay sang Peter - Lát nữa, khi tôi đề nghị ông đóng vai của mình, tôi muốn ông hình dung ra cảnh Katherine… một mình chết dần trong bóng tối nơi đây.

Mặt Peter ngập đầy đau đớn.

- Cô ta còn sống được khoảng một tiếng nữa, - gã đàn ông tiếp - Nếu ông tích cực hợp tác thì tôi sẽ có đủ thời gian để cứu cô ta. Dĩ nhiên, nếu ông chống lại tôi… em gái ông sẽ chết rục ở đây.

Peter gầm rít qua mớ giẻ nhét trong miệng.

- Tôi biết, tôi biết, - gã đàn ông xăm trổ đặt tay lên vai Peter - việc này khiến ông dằn vặt. Nhưng chả nên thế. Vả chăng, đây đâu phải lần đầu tiên ông bỏ rơi một thành viên trong gia đình - Gã dừng lại, cúi thấp xuống và thì thào vào tai Peter - Dĩ nhiên, tôi đang nghĩ đến Zachary con trai ông, trong nhà tù Soganlik.

Peter cố gồng mình và phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn nữa qua mớ giẻ trong miệng.

- Thôi đi! - Katherine thét lên.

- Tôi còn nhớ rất rõ đêm đó - gã đàn ông vừa gói ghém đồ đạc vừa chế nhạo - Tôi nghe thấy tất cả. Lão cai ngục gợi ý thả con trai ông ra, nhưng ông quyết định dạy cho Zachary một bài học… bằng cách bỏ rơi nó. Con trai của ông đã nhận được bài học của mình, phải không? - Gã mỉm cười - Sự mất mát của nó… là thành quả của tôi.

Gã rút một mảnh vải lanh và nhét sâu vào miệng Katherine.

- Chết, - gã thì thào với cô - thì nên im ắng.

Peter vùng vẫy dữ dội. Không nói thêm một lời, gã đàn ông xăm trổ đẩy xe lăn đưa Peter ra khỏi phòng, thật chậm để ông có thời gian nhìn em gái lần cuối.

Katherine và Peter trân trân ngó nhau.

Sau đó ông đi.

Katherine nghe rõ tiếng họ di chuyển lên đường dốc và qua cánh cửa kim loại. Sau đó gã đàn ông khoá cánh cửa sắt lại và tiếp tục bước qua bức tranh Ba Kiều nữ, vài phút sau, có tiếng xe hơi nổ máy.

Rồi cả toà nhà chìm vào im lặng.

Katherine nằm lại một mình trong bóng tối, máu chảy đầm đìa.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 108

Tâm trí Langdon bay lượn trong một vực thẳm không đáy.

Không ánh sáng. Không âm thanh. Không cảm giác.

Chỉ có sự im ắng và trống trải vô tận.

Mềm mại.

Nhẹ hẫng.

Cơ thể đã giải thoát anh. Anh được cởi trói.

Thế giới vật chất tan biến. Thời gian không còn tồn tại.

Lúc này, Langdon chỉ đơn thuần là một ý thức… một tri giác vật vờ trong bao la vũ trụ.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 109

Chiếc UH-60 cải tiến bay vè vè trên những mái nhà rộng rãi của khu Kalorama Heights, lao về phía toạ độ mà nhóm hỗ trợ cung cấp cho họ. Đặc vụ Simkins là người đầu tiên phát hiện ra chiếc Escalade màu đen đỗ bừa trên bãi cỏ phía trước một toà nhà. Cổng vào đóng chặt, bên trong tối om và im ắng.

Sato ra hiệu cho phi công hạ cánh.

Trực thăng đáp thẳng xuống bãi cỏ trước nhà, xung quanh rải rác vài chiếc xe hơi… có cả một chiếc ô tô bốn chỗ của lực lượng an ninh, đèn vẫn nhấp nháy trên nóc.

Theo sau là các đồng đội, Simkins nhảy xuống, rút vũ khí và lao nhanh lên phía hiên. Cửa lớn khoá chặt, anh khum tay che mắt nhìn qua một khung cửa sổ. Tiền sảnh tăm tối, nhưng Simkins vẫn nhận ra một thân hình nhờ nhờ trên sàn.

- Bố khỉ, - anh thì thào - Đúng Hartmann rồi.

Một trong các đặc vụ vớ lấy cái ghế đẩu ngoài hiên và ném thẳng cánh vào ô cửa sổ lồi. Tiếng kính vỡ loảng xoảng chìm lấp giữa tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng phía sau họ, vài giây sau, tất cả đều đã ở trong nhà. Simkins lao bổ vào tiền sảnh và quỳ xuống bên Hartmann để kiếm tra mạch đập. Không thấy gì cả. Máu loang khắp mọi nơi. Sau đó, anh phát hiện ra chiếc tô vít ở họng Hartmann.

Chúa ơi. Simkins đứng lên và ra hiệu cho người của mình tiến hành lục soát toàn bộ các phòng.

Nhóm đặc vụ toả ra khắp tầng một, ánh đèn la-de loang loáng trong bóng tối của căn nhà sang trọng. Không có gì khác thường ở phòng khách hay phòng làm việc, nhưng đến phòng ăn, họ ngạc nhiên phát hiện ra một nữ nhân viên an ninh bị xiết cổ đến chết.

Simkins chẳng mấy hy vọng Robert Langdon và Katherine Solomon còn sống sót. Rõ ràng tên sát nhân tàn bạo này đã giương một cái bẫy. Hắn đã táo gan tới mức giết cả đặc vụ CIA và nhân viên an ninh có vũ trang thì xem như giáo sư và nữ khoa học gia kia chẳng còn cơ hội nào.

Rà soát xong toàn bộ tầng một và chắc chắn không có gì nguy hiểm nữa, Simkins mới phái hai đặc vụ lên gác tìm kiếm. Bản thân anh phát hiện ra trong nhà bếp một lối cầu thang dẫn xuống tầng hầm, anh bèn lần theo. Tới chân cầu thang, anh bật đèn lên. Tầng hầm khá rộng rãi và gọn ghẽ, chừng như ít khi được sử dụng. Ngoài nồi hơi, tường xi măng trơ trọi và dăm ba cái thùng. Ở đây chẳng còn gì hết. Simkins quay trở lên bếp vừa lúc người của anh từ tầng hai đi xuống. Bọn họ cùng lắc đầu.

Ngôi nhà vắng tanh.

Không có ai ở đây, và không phát giác thêm xác chết nào.

Simkins điện đàm cho Sato để báo cáo.

Khi anh ra đến tiền sảnh, Sato đã theo bậc cấp lên tới hàng hiên. Warren Bellamy thờ thẫn ngồi lại một mình trong trực thăng, bên chân là chiếc cặp vỏ titanium của Sato. Trong cặp có bộ máy tính xách tay bảo mật cao, nhờ nó giám đốc OS có thể truy cập vào hệ thống máy tính của CIA trên toàn cầu thông qua các kết nối vệ tinh mã hoá.

Lúc tối, bà đã sử dụng chính máy tính này để cho Bellamy biết một thông tin đủ khiến ông bắt tay hợp tác hoàn toàn. Simkins không biết Bellamy "nhìn" thấy gì, chỉ biết từ lúc đó vị kiến trúc sư rơi vào trạng thái hồn xiêu phách lạc.

Sato bước vào tiền sảnh, dừng lại một chút để cúi đầu nhìn xác Hartmann. Đoạn, bà ngước mắt ngó Simkins.

- Không có dấu vết gì của Langdon hay Katherine ư? Biết đâu cả Peter Solomon nữa?

Simkins lắc đầu.

- Nếu họ còn sống thì chắc hắn đã dẫn họ đi cùng - Anh có thấy chiếc máy tính nào trong nhà không?

- Có thưa bà. Đằng văn phòng.

- Cho tôi xem.

Simkins dẫn Sato ra khỏi tiền sảnh và tiến vào phòng khách. Lớp thảm sang trọng tung tóe những mảnh kính vỡ văng ra từ ô cửa sổ.

Họ đi qua một lò sưởi, một bức tranh lớn và vài giá sách để tới một cánh cửa. Văn phòng được ốp gỗ, có kê một chiếc bàn cổ và một màn hình máy tính lớn. Sato bước vòng ra sau bàn để xem màn hình, nhưng lập tức cau mày.

- Chết tiệt, - bà nói qua kẽ răng.

Simkins bước vòng lại và nhìn theo. Màn hình trống trơn.

- Có chuyện gì vậy?

Sato trỏ một cái giá trống trên bàn.

- Hắn dùng máy tính xách tay. Hắn mang đi rồi.

Simkins không hiểu.

- Hắn có thông tin mà bà muốn xem à?

- Không, - Sato đáp, giọng rất trầm trọng - Hắn có thông tin mà tôi không muốn ai xem cả.

° ° °

Trong tầng hầm bí mật dưới cầu thang, Katherine Solomon nghe tiếng phành phạch của cánh quạt trực thăng, tiếp đến là tiếng kính vỡ loảng xoảng và tiếng giày đinh nặng nề dọc sàn nhà phía trên. Cô cố gắng kêu cứu, nhưng mảnh giẻ trong miệng đã ngăn cản, không những không thốt được một âm thanh gì, mà càng cố kêu, máu từ khuỷu tay càng chảy ra nhanh hơn.

Katherine cảm thấy ngợp thở và hơi chóng mặt.

Cô biết mình cần phải bình tĩnh. Hãy sử dụng trí tuệ, Katherine.

Cô tập trung hết tinh thần để chuyển sang trạng thái thiền định.

° ° °

Tâm trí Robert Langdon vẫn bồng bềnh giữa khoảng không trống rỗng. Anh ngó đăm đăm vào một vùng vô tận, tìm xem có chỗ nào bấu víu không, nhưng chẳng tìm thấy gì cả.

Tối như hũ nút. Im ắng hoàn toàn. Cực kỳ thanh vắng.

Thậm chí còn không có lực hấp dẫn để anh xác định đâu là phía trên.

Cơ thể anh đã tan biến.

Chắc chết là thế này đây.

Thời gian cứ co vào, giãn ra rồi nén lại, như thể không dính dáng gì tới nơi này. Langdon khó lòng ước tính đã bao lâu rồi.

Mười giây chăng? Hay mười phút? Mười ngày?

Đột nhiên, giống hệt những vụ nổ ghê gớm xa xăm trong các thiên hà, trí nhớ bắt đầu hiện hữu, ào ạt dồn về Langdon như những đợt sóng xung kích tràn qua khoảng trống mênh mông.

Robert Langdon bắt đầu nhớ ra. Những hình ảnh xối vào anh… sống động và rối loạn. Một gương mặt phủ kín hình xăm. Một đôi tay mạnh mẽ nhấc đầu anh lên và dộng mạnh xuống sàn.

Cơn đau bùng phát… sau đó là đêm đen.

Ánh sáng xam xám.

Đau nhói.

Ký ức mong manh. Langdon bị lôi xềnh xệch, nửa mơ nửa tỉnh, xuống, xuống, xuống nữa. Kẻ bắt anh ư ử ngâm.

Verbum significatium… Verbum omnificum… Verbum perdo…
 

hoahongden12

Active Member

Giám đốc Sato đứng một mình trong phòng làm việc của Mal’akh, đợi bộ phận hình ảnh vệ tinh CIA xử lý yêu cầu của bà. Một trong những lợi thế khi công tác ở Thủ đô là độ bao phủ của vệ tinh. Biết đâu nhờ may mắn, một trong số các vệ tinh đêm nay lại tình cờ định vị đúng chỗ và thu được hình ảnh căn nhà, chưa chừng còn lưu giữ bóng dáng chiếc xe mới rời khỏi đây nửa tiếng trước.

- Xin lỗi, thưa bà, - kỹ thuật viên vệ tinh báo - Lúc tối vệ tinh không theo dõi toạ độ này. Bà có muốn yêu cầu định vị lại không?

- Không cảm ơn. Quá muộn rồi - Sato tắt máy và thở hắt ra, không biết làm cách nào để truy ra hướng đến của mục tiêu. Bà bước ra tiền sảnh các nhân viên vừa cho xác đặc vụ Hartmann vào túi và đang khiêng ra trực thăng. Sato toan hạ lệnh cho Simkins thu quân để quay về Langley, thì phát hiện anh đang bò rạp trên nền phòng khách bằng cả hai chân hai tay, trông như phát bệnh vậy.

- Anh ổn chứ?

Simkins ngước nhìn Sato, vẻ mặt rất kỳ cục.

Bà có trông thấy dấu vết này không? - Anh trỏ tay lên sàn phòng khách.

Sato bước lại gần, dõi mắt xuống lớp thảm sang trọng và lắc đầu, không phát hiện điều gì khác lạ cả.

- Quỳ hẳn xuống, - Simkins nhắc - Hãy nhìn lớp tuyết của thảm ấy.

Sato làm theo. Một lúc sau, bà đã nhận ra. Các sợi thảm tựa hồ bị ép mạnh, chúng nằm rạp xuống theo hai đường miết thẳng tựa hồ bánh xe của một thứ gì đó đã lăn ngang qua phòng.

- Tôi đang tự hỏi, - Simkins nói và trỏ tay - các vệt này dẫn đến đâu.

Sato đưa mắt dõi theo. Hai đường song song lờ mờ chạy ngang tấm thảm phòng khách rồi biến mất bên dưới một bức tranh lớn trải từ trần xuống tới tận sàn treo ngay cạnh bếp lò. Thế là thế nào nhỉ?

Simkins tiến lại phía bức tranh và cố gắng nhấc nó ra khỏi tường.

Không tài nào nhấc được.

- Nó cố định rồi, - anh đưa các ngón tay lần theo mép tranh - Xem nào, có gì đó bên dưới… - Ngón tay của anh chạm phải một cái cần nhỏ ngay chỗ mép dưới, và có gì đó khởi động.

Sato bước tới gần. Simkins đẩy mạnh khung, toàn bộ bức tranh chầm chậm xoay quanh trục tâm của nó, như một cánh cửa xoay.

Simkins nâng đèn pin lên và rọi vào khoảng không gian tối đen phía trước.

Mắt Sato nheo lại. Chúng ta đi nào.

- Ở cuối hành lang ngắn là một cánh cửa sắt nặng trịch.

° ° °

Ký ức cuồn cuộn tràn qua vùng tối trong tâm trí Langdon rồi mau chóng tan biến. Thi thoảng, một tia chớp sáng loà lóe lên kèm theo tiếng thì thầm xa xăm kỳ quái.

Verbum significatium… Verbum omnificum… Verbum perdo…

Tiếng lầm rầm tiếp tục, nghe đều đều như đang từng một khúc thánh ca thời trung cổ.

Verbum significatium… Verbum omnificum. Những từ ấy tan loãng trong khoảng không trống trải, rồi âm thanh khác mới mẻ hơn vang vọng quanh Langdon.

Khải huyền… Franklin… Khải huyền… Verb um… Khải huyền…

Thình lình, một hồi chuông tang lễ bắt đầu ngân lên ở đâu đó xa xăm. Tiếng chuông rung mãi, rung mãi, càng lúc càng vang to. Nó gióng dả gấp gáp, như thể mong Langdon sẽ hiểu, như muốn giục trí nhớ của anh đi theo.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 111

Chuông tháp đồng hô ngân nga đúng ba phút, làm rung cả ngọn chúc đài pha lê treo trên đầu Langdon. Vài chục năm trước, anh đã từng tham dự các bài giảng trong chính thính phòng mến yêu này, thính phòng tại Học viện Phillips Exeter. Hôm nay, anh đến đây để nghe một người bạn thân diễn thuyết trước đông đảo sinh viên.

Khi ánh đèn dịu xuống, Langdon kiếm một chỗ ngồi dựa vào bức tường hậu, ngay bên dưới dãy chân dung các vị hiệu trưởng.

Tiếng suỵt ra hiệu im lặng lan khắp khu vực cử toạ.

Trong bóng tối đặc quánh, một bóng người cao lớn băng ngang sân khấu và tiến đến bục diễn thuyết.

- Chào quý vị, - giọng nói không nhìn rõ mặt nhỏ nhẹ vang qua micro.

Tất cả mọi người ngồi thẳng dậy, cố căng mắt nhìn xem ai đến giảng bài cho họ.

Máy chiếu bật sáng, trưng ra một bức ảnh ngả vàng đã mờ, chụp một toà lâu đài rất ấn tượng với mặt tiền bằng sa thạch đỏ, các tháp vuông cao vút và nhiều chi tiết trang trí theo phong cách Gothic.

Bóng người kia lên tiếng.

- Ai đó cho tôi biết đây là đâu được không?

- Xứ Anh! - một giọng nữ vang lên trong bóng tối - Mặt tiền của công trình này là sự pha trộn giữa trường phái Gothic sơ khai và Roman hậu kỳ, suy ra đây là một toà lâu đài Norman đặc trưng và nó thuộc xứ Anh vào khoảng thế kỷ XII.

- Ái chà, - giọng nói không nhìn rõ mặt đáp lại - Có người biết kiến trúc của nó cơ đấy.

Những tiếng xì xầm nổi lên.

- Tiếc thay, - bóng người nói thêm - bạn chệch ba nghìn dặm và nửa thiên niên kỷ.

Cả thính phòng ồn ào.

Lúc này, máy chiếu hiển thị một bức ảnh màu hiện đại của chính toà lâu đài nọ nhưng từ góc độ khác. Các toà tháp bằng sa thạch Seneca Creek choán hết phần tiền cảnh, nhưng ở hậu cảnh, gần đến giật mình, lại sừng sững mái vòm màu trắng với những hàng cột uy nghi của Điện Capitol.

- Khoan đã! - cô gái la lên - Có một toà lâu đài Norman ở Thủ đô ư?

- Từ năm 1855. - giọng nói đáp - Là thời điểm chụp bức ảnh tiếp theo đây.

Tấm ảnh thứ ba xuất hiện: một tấm ảnh đen trắng chụp nội thất, mô tả một phòng khiêu vũ rất rộng, có mái vòm, bài trí những bộ xương động vật, các hộp trưng bày, các lọ thuỷ tinh chứa tiêu bản sinh học, các hiện vật khảo cổ, và mô hình thạch cao những loài bò sát thời tiền sử.

- Lâu đài tuyệt vời này, - giọng nói vang lên - là bảo tàng khoa học đầu tiên của nước Mỹ, là món quà của một nhà khoa học giàu có người Anh. Cũng giống các bậc tiền bối của chúng ta, ông tin rằng lãnh thổ non trẻ này sẽ trở thành mảnh đất của sự khai sáng. Ông chuyển giao một gia tài đồ sộ cho tổ tiên chúng ta và đề nghị họ dùng nó để xây dựng "một cơ sở dành cho sự phát triển và phổ biến tri thức, ngay tại trái tim tổ quốc" - Diễn giả ngừng lại một lúc lâu - Ai cho tôi biết tên của nhà khoa học hào hiệp này nào?

Từ mấy dãy ghế đầu, một giọng nói e dè cất lên:

- James Smithson phải không?

Tiếng rì rầm tán thưởng lan ra khắp đám đông.

- Đúng là Smithson, - người trên sân khấu trả lời, rồi bước hẳn ra ánh đèn, đôi mắt xám ánh lên vui vẻ - Chào tất cả. Tên tôi là Peter Solomon. Tổng thư ký Viện Smithsonian.

Sinh viên vỗ tay rào rào.

Trong bóng tối, Langdon quan sát với vẻ đầy thán phục trong khi Peter làm say lòng những tâm hồn trẻ trung kia bằng một chuyến du lịch qua ảnh để tìm hiểu về lịch sử sơ khai của Viện Smithsonian.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 112

Đang chông chênh trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Katherine Solomon bỗng giật nảy mình vì dư chấn của một tiếng nổ nhức óc đinh tai.

Lát sau, mùi khói thoảng đến.

Tai cô vẫn còn ong ong.

Có tiếng nói loáng thoáng. Ở phía xa. Tiếng gọi nhau. Tiếng bước chân. Bỗng đâu hô hấp của cô thông suốt. Mảnh vải nhét miệng đã được kéo ra.

- Cô an toàn rồi, - một giọng đàn ông thì thầm - Cứ nằm yên.

Anh ta không rút ngay cây kim ra khỏi tay Katherine như cô tưởng, thay vào đó lại lớn tiếng ra lệnh:

- Mang hộp cứu thương đến đây… tiếp ngay một túi truyền dịch vào cây kim… truyền luôn dung dịch Ringer nhé… đo huyết áp cho tôi.

Sau đó anh ta bắt đầu xem xét mạch đập, thân nhiệt, hô hấp… của Katherine, và hỏi:

- Cô Solomon, kẻ làm thế này với cô… hắn đi đâu rồi?

Katherinecố cất tiếng, nhưng không sao bật thành lời.

- Cô Solomon? - người nọ lặp lại - Hắn đi đâu rồi?

Katherine gắng mở to mắt, nhưng cảm thấy mình đang chết dần.

- Chúng tôi cần biết hắn đi đâu, - người nọ thúc giục.

Katherine thì thầm ba từ, dù biết là vô tác dụng.

- Ngọn… núi… thiêng.

Giám đốc Sato bước qua cánh cửa sắt nham nhở, theo lối dốc bằng gỗ đi xuống tầng hầm bí mật. Tới chân dốc bà gặp một đặc vụ.

- Thưa giám đốc, tôi nghĩ bà muốn xem thứ này.

Sato theo chân người đặc vụ vào căn phòng nhỏ nằm bên hành lang hẹp. Căn phòng sáng trưng và trống trải, chỉ có một đống quần áo trên sàn. Sato nhận ra chiếc áo khoác và đôi giày của Robert Langdon.

Đặc vụ trỏ một cái hòm lớn trông y như quan tài ở bức tường phía xa.

Cái quái gì thế không biết?

Sato tiến về phía cái hòm, nhận ra nó gắn với một đường ống nhựa trong suốt chạy xuyên qua tường. Rất thận trọng, bà bước lại gần.

Trên mặt hòm có lắp nắp trượt. Sato cúi xuống đẩy cái nắp sang bên, một ô cửa nhỏ lộ ra.

Bà giật mình nhảy lui.

Bên dưới lớp kính Plexiglas… lập lờ khuôn mặt vô hồn của giáo sư Robert Langdon.

° ° °

Ánh sáng.

Đang lơ lửng trong khoảng không vô định, Langdon chợt thấy quanh mình ngập đầy ánh nắng chói chang. Những tia sáng nóng sực xé tan màn tối, xuyên thẳng vào tâm trí anh.

Ánh sáng tuôn chảy khắp mọi nơi.

Từ đám mây rạng rỡ trước mặt thình lình hiện ra một bóng dáng yêu kiều. Một dung nhan… lờ mờ và nhoà nhạt… đôi mắt đăm đăm nhìn anh qua khoảng trống giữa hai bên. ánh sáng lóe lên từng chùm quanh dung nhan ấy, Langdon băn khoăn tự hỏi, diện mạo của Chúa đây chăng.

Sato chăm chú ngó xuống hòm, ngẫm nghĩ không hiểu giáo sư Langdon có biết chuyện gì đang xảy ra không. E rằng khó. Bởi mục đích chính của công nghệ này là làm con người mất phương hướng mà.

Hòm tiết chế giác quan xuất hiện vào khoảng những năm 1950 và vẫn là cách giải thoát quen thuộc đối với những nhà thí nghiệm giàu có của Kỷ nguyên Mới. "Trôi nổi", như người ta thường gọi, đem lại một trải nghiệm mang tính tiên nghiệm, một dạng hỗ trợ thiền định giúp làm lắng hoạt động của não bằng cách loại bỏ tất cả những thông tin giác quan nạp vào, từ ánh sáng, âm thanh đến cảm giác, thậm chí là trọng lực. Ở loại hòm kiểu truyền thống, người ta sẽ nằm ngửa trong dung dịch hyperbuoyant saline, giữ mặt cao hơn mặt nước để còn thở.

Tuy nhiên, những năm gần đây, người ta đã đạt được bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật chế tạo hòm tiết chế giác quan.

Nhờ perfluorocarbon oxy hoá.

Thường được biết đến với tên gọi Thông hơi lỏng toàn diện (TLV), công nghệ mới mẻ này có tính chất phản trực giác đến mức khó tin.

Chất lỏng thở được.

Thở trong chất lỏng là một thực tế được chứng minh từ năm 1966, khi Leland C. Clark thành công trong việc giữ cho một con chuột sống sót sau vài giờ bị dìm vào dung dịch perfluorocarbon oxy hoá.

Năm 1989, công nghệ TLV xuất hiện đầy ấn tượng trong bộ phim Vực thẳm, mặc dù rất ít khán giả nhận ra rằng họ đang chứng kiến một thành tựu khoa học thật sự.

Phương pháp Thông hơi lỏng toàn diện ra đời nhờ những cố gắng của y học hiện đại nhằm giúp trẻ sơ sinh thiếu tháng hô hấp bằng cách trả chúng về với môi trường tương tự tử cung. Phổi con người phải ở trong tử cung chín tháng, nên đã quen thuộc với môi trường chất lỏng. Trước đây, perfluorocarbon quá đặc khiến việc hô hấp khá chật vật, nhưng những đột phá hiện đại làm nó gần như giống hệt nước.

Ban giám đốc Khoa học Công nghệ của CIA - mà giới tình báo thường gọi là "những thầy phù thuỷ Langley" - đã tiến hành vô vàn thí nghiệm với perfluorocarbon oxy hoá để phát triển công nghệ cho quân đội Hoa Kỳ. Các nhóm lặn sâu của hải quân thấy rằng khi thở bằng chất lỏng oxy hoá thay cho heliox hoặc trimix thông thường thì họ có khả năng lặn ở độ sâu lớn hơn mà không gặp nguy cơ tai biến do áp suất. Tương tự, NASA và lực lượng không quân thừa nhận các phi công được trang bị thiết bị thở chất lỏng thay cho bình oxy truyền thống có thể trụ vững trước các lực G 1 tốt hơn bởi chất lỏng lan toả lực G qua các cơ quan nội tạng đồng đều hơn chất khí.

Sato cũng biết nhiều người tự lập "phòng siêu thí nghiệm" để dùng thử bể Thông hơi lỏng toàn diện mà họ gọi là "những cỗ máy thiền định". Cái hòm này có lẽ được lắp đặt cho mục đích nghiên cứu riêng của chủ nhân, song đám chốt khoá nặng nề khiến bà ngờ rằng nó còn phục vụ cho những ứng dụng đen tối khác… chẳng hạn cho thẩm vấn, một kỹ thuật mà CIA khá quen thuộc.

Nhấn nước là kỹ thuật thẩm vấn đầy tai tiếng, nhưng rất hiệu quả bởi nạn nhân thật sự tin rằng mình đang chết đuối. Trong một vài hoạt động mật, người ta sử dụng loại bể tiết chế cảm giác tương tự thế này để tăng hiệu ứng lên nhiều cấp độ mới khủng khiếp hơn, khi bị dìm trong chất lỏng, nạn nhân có thể "chết đuối" theo đúng nghĩa đen. Cơn hoảng loạn đi kèm với cảm giác chết chóc khiến họ không nhận ra rằng chất lỏng mình đang hít thở sền sệt hơn nước. Khi chất lỏng tràn vào phổi, họ thường ngất đi vì sợ, và sau đó tỉnh lại trong trạng thái "bế quan".

Người ta còn trộn các chất gây tê, gây liệt, và ma tuý gây ảo giác vào chất lỏng oxy hoá ấm để khiến tù nhân có cảm giác hồn bất phụ thể. Mặc trí não phát lệnh cử động đi khắp cơ bắp, chân tay cũng không nhúc nhích được. Bản thân trạng thái "chết" đã đủ kinh hãi, nhưng trạng thái mất phương hướng bắt nguồn từ quá trình "tái sinh", cùng với sự hỗ trợ của ánh sáng mạnh, không khí lạnh, và tiếng ồn chói tai, mới thực sự gây thương tổn và đau đớn. Sau vài lần liên tục tái sinh và chết đuối, tù nhân sẽ hoảng loạn đến nỗi không rõ mình còn sống hay đã chết… và anh ta sẵn sàng cung khai mọi điều.

Sato toan đợi y tế đến để đưa Langdon ra, nhưng bà hiểu rằng không còn đủ thời gian nữa. Phải tìm xem người đàn ông này đã biết những gì.

- Tắt hết đèn đi, - bà ra lệnh - Và tìm cho tôi mấy cái chăn.

° ° °

Mặt trời chói loà biến mất.

Gương mặt cũng biến mất.

Bóng tối trở lại, nhưng giờ Langdon nghe thấy tiếng thì thầm văng vẳng lọt qua khoảng không xa xôi hàng bao nhiêu năm ánh sáng.

Những giọng nói nghèn nghẹt… những từ ngữ rắc rối. Có cả những chấn động, cứ như thể thế giới sắp vỡ tung.

Rồi điều đó xảy ra thật: Rất đột ngột, vũ trụ bị xé toang làm đôi. Một vết nứt khổng lồ mở ra một vùng trống rỗng… tựa hồ không gian nứt ngay ở đường phân giới. Một màn sương xam xám tràn qua lỗ hổng, và Langdon nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng. Những bàn tay ở đâu vươn tới, tóm lấy anh, cố gắng lôi anh ra khỏi thế giới của mình.

- Không! Langdon chống cự thật lực, nhưng anh không có tay… không có nắm đấm. Hay là anh có nhỉ? Thình lình, anh cảm thấy cơ thể mình hiện ra trong tâm trí. Da thịt anh đã quay trở lại và đang bị mấy bàn tay mạnh mẽ kia tóm lấy lôi dậy. Không, xin hãy làm ơn!

Nhưng đã quá muộn.

Khi những bàn tay lôi tuột Langdon ra khỏi lỗ hổng. anh thấy ngực đau nhói, phổi như bị nhồi đầy cát. Ngạt thở quá! Bỗng dưng, anh thấy mình nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng và lạnh chưa từng thấy. Ngực anh bị ấn xuống, liên tục, mạnh và đau. Anh đang mửa ra hơi nóng.

Tôi muốn quay trở lại!

Langdon có cảm giác mình là một đứa trẻ vừa sinh ra từ bụng mẹ.

Anh cứ co giật, ho khạc chất lỏng, ngực và cổ nhức buốt, nhức gớm ghê, họng thì bỏng rát. Người ta đang nói chuyện, cố giữ ở mức thì thầm, nhưng nghe vẫn đinh tai nhức óc. Langdon chưa nhìn rõ, chỉ thấy xung quanh toàn những hình thù câm lặng. Da anh tê dại như da chết. Ngực anh bị đè nặng hơn… sức ép. Mình ngạt thở quá!

Langdon khạc thêm một chút chất lỏng. Cơn buồn nôn trào lên, anh cố hít ngược lại. Không khí lạnh theo đó tràn đầy phổi, Langdon tưởng đâu mình là đứa trẻ sơ sinh đang hít lấy hơi thở đầu tiên. Thế giới này thật đau khổ. Anh chỉ muốn quay trở lại nơi anh vừa sinh ra.

Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay chóng, Langdon nhận thấy mình đang nằm nghiêng trên sàn nhà cứng, người quấn trong chăn và khăn bông. Một gương mặt quen thuộc đang nhìn xuống anh… nhưng không còn quầng sáng chói loà nào nữa. Những tiếng lầm rầm xa xăm như cầu kinh vẫn vơ vẩn trong tâm trí anh.

Verbum significatium… Verbum omnificum…

- Giáo sư Langdon, - ai đó thì thào - ông có biết mình đang ở đâu không?

Langdon yếu ớt gật đầu, và vẫn ho sù sụ.

Nhưng quan trọng là, anh bắt đầu thông suốt chuyện gì đã diễn ra tối nay.

--- ------ ------ ------ -------

1 Lực G của một vật là gia tốc của nó so với khi rơi tự do.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 113

Quấn mình trong mớ chăn len. Langdon đứng trên đôi chân run run, chòng chọc nhìn cái bể chất lỏng mở toang. Cơ thể đã trở về với anh, mặc dù anh chẳng ước ao điều đó. Cổ họng và phổi anh bỏng rát. Thế giới nghiệt ngã và tàn bạo biết bao!

Sato vừa giải thích về loại bể tiết chế cảm giác, và nói thêm nếu bà không lôi anh ra ngoài thì anh sẽ chết đói hoặc thậm chí còn tệ hơn.

Langdon tin chắc Peter cũng đã nếm trải tình cảnh tương tự. Peter đang ở quãng giữa, lúc chập tối gã đàn ông xăm trổ có nói với anh như vậy ông ấy đang ở luyện ngục… Hamistagan. Nếu Peter phải trải qua vài lần tái sinh kiểu này thì Langdon không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông tiết lộ cho kẻ bắt giữ mình mọi điều gã hỏi.

Sato ra hiệu cho Langdon đi cùng bà, và anh tuân theo, chậm rãi lê bước tới một sảnh hẹp, nằm sâu hơn trong cái hang ổ dị hợm chưa từng thấy này. Họ tiến vào một gian phòng vuông vức tràn ngập ánh đèn màu kỳ quái, giữa phòng kê một chiếc bàn đá. Trông thấy Katherine, mặc dù tình trạng của cô còn rất thê thảm, Langdon vẫn thở phào nhẹ nhõm.

Katherine nằm ngửa trên chiếc bàn đá, dưới sàn vương vãi toàn khăn bông đẫm máu. Một đặc vụ CIA đang giơ cao túi dịch với ống truyền nối vào tay Katherine.

Cô đang thổn thức.

- Katherine? - Langdon khó nhọc gọi.

Katherine ngoảnh đầu ra, vẻ ngơ ngác và bối rối.

- Robert đấy à? - Cô mở to mắt, thoạt tiên ngỡ ngàng và sau đó là phấn khởi - Nhưng… em nhìn thấy anh chết đuối rồi mà!

Langdon tiến lại phía bàn đá.

Katherine cố nhấc mình ngồi lên, mặc kệ ống truyền dịch và vẻ bực bội của anh chàng đặc vụ. Langdon tới bên cái bàn, Katherine vươn người ra, vòng hai tay ôm cả Langdon lẫn tấm chăn quấn của anh và siết thật chặt.

- Ơn Chúa, - cô thì thầm, hôn lên má Langdon. Rồi cô lại hôn và siết chặt anh thêm lần nữa như không tin anh tồn tại thật - Em không hiểu… làm thế nào…

Sato xen vào, giải thích về loại bể tiết chế cảm giác và perfluorocarbon oxy hoá, nhưng rõ ràng Katherine chẳng hề lắng nghe. Cô chỉ ôm Langdon thật chặt.

Rồi nhớ lại cảnh đoàn tụ hãi hùng với Peter, cô run run nói:

- Robert, anh Peter còn sống.

Cô miêu tả tình trạng sức khỏe của ông, chiếc xe lăn, con dao kỳ lạ, những lời ám chỉ một sự "hy sinh", và việc gã kia bỏ lại cô trong tình trạng chảy máu làm đồng hồ sống nhằm ép Peter phải hợp tác thật nhanh.

Langdon không đưa ra bình luận nào.

- Em có… biết họ đi… đâu không?

- Gã nói sẽ đưa anh Peter tới ngọn núi thiêng.

Langdon bứt ra và nhìn Katherine chằm chằm.

Mắt cô vẫn còn đẫm lệ.

- Gã nói đã giải mã được đồ hình dưới đáy kim tự tháp, và đáp án cho biết phải tới ngọn núi thiêng.

- Giáo sư, - Sato thúc giục - chi tiết đó có ý nghĩa gì với ông không?

Langdon lắc đầu.

- Không hề - song anh vẫn thấy le lói hy vọng - Nhưng nếu hắn có thông tin từ đáy kim tự tháp thì chúng ta cũng có thể có. Mình chỉ cho gã cách giải mà.

Sato lắc đầu.

- Kim tự tháp không còn ở đây nữa. Chúng tôi đã tìm. Hắn mang theo mình rồi.

Langdon im lặng, nhắm mắt và" cố hồi tưởng bảng biểu tượng ở đế tháp. Cái bảng ấy là một trong những hình ảnh cuối cùng anh nhìn thấy trước khi chết đuối, song chấn thương có thể xoá bỏ ký ức nằm sâu trong trí não. May lắm anh chỉ nhớ được một phần đồ hình chứ không phải tất cả, nhưng có lẽ thế cũng đủ rồi chăng?

Anh quay sang Sato và nói nhanh:

- Tôi có thể nhớ ra, nhưng tôi cần bà tìm giúp một thứ trên Internet.

Sato rút chiếc Blackberry.

- Hãy tìm kiếm cụm "ô vuông Franklin bậc tám"!

Sato sửng sốt nhìn anh, nhưng vẫn nhập các từ vào mà không hỏi han thêm.

Vì mắt vẫn mờ, đến tận lúc này Langdon mới bắt đầu quan sát không gian lạ lùng quanh mình. Anh nhận ra chiếc bàn đá mà họ đang dựa vào có rất nhiều vết máu cũ, bức tường bên phải dán toàn văn bản, ảnh, hình vẽ, bản đồ và một mạng lưới các sợi dây kết nối chúng với nhau.

Chúa ơi!

Vẫn quấn chặt mình trong tấm chăn, Langdon tiến về phía tác phẩm cắt dán lạ mắt nọ. Đính trên tường là một tập hợp thông tin kỳ cục những trang văn bản cổ, từ ma thuật tới Kinh thánh Thiên Chúa giáo, hình vẽ các biểu tượng và dấu ấn, trang in các website, ảnh vệ tinh Washington D.C. kèm theo những chú thích và dấu chấm hỏi nguệch ngoạc. Trong đó có một danh sách từ ngữ dài thượt thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Anh nhận ra một vài từ là thánh ngữ của Hội Tam điểm, một số khác là các từ ngữ ma thuật cổ xưa, và cả các từ trong những câu thần chú hành lễ.

Phải chăng đó là những gì hắn đang tìm kiếm?

Một từ?

Đơn giản vậy thôi ư?

Lâu nay, lý do chủ yếu khiến Langdon nghi ngờ tính xác thực của Kim tự tháp Tam điểm chính là bởi ai cũng cho rằng nó tiết lộ vị trí của những Bí mật Cổ xưa. Tiết lộ này lại liên quan đến một căn hầm khổng lồ chứa hàng ngàn hàng vạn cuốn sách không hiểu sao vẫn tồn tại được trong khi các thư viện lưu giữ chúng ngày xưa đã tuyệt tích từ lâu. Câu chuyện nghe chừng phi lý. Căn hầm nào mà lớn đến vậy? Lại nằm dưới lòng Thủ đô nước Mỹ nữa chư? Tu nhiên, nhớ đến bài giảng của Peter ở Phillips Exeter, kết hợp với danh sách từ ngữ huyền bí trên tường, Langdon chợt phát hiện một khả năng đáng chú ý khác.

Anh hoàn toàn không tin vào sức mạnh của các từ ngữ ma thuật… nhưng hiển nhiên là gã đàn ông xăm trổ kia rất tin. Langdon nhìn lướt các chú thích nguệch ngoạc, bản đồ, văn bản, bản in, cùng tất cả những sợi dây liên kết và giấy ghi nhớ.

- Thế là đủ có một chủ đề xuyên suốt ở đây.

Lạy Chúa, hắn đang tìm verbum significatium… Từ Còn Thiếu.

Langdon để cho suy nghĩ định hình, nhớ lại các phần bài giảng của Peter. Từ Còn Thiếu chính là thứ hắn đang tìm kiếm, là thứ hắn tin rằng được chôn giấu tại Washington.

Sato đến bên cạnh anh.

- Ông cần thông tin này phải không? - Bà đưa chiếc Blackberry ra.

Langdon nhìn ma trận vuông mỗi chiều tám số trên màn hình.

- Chính xác - Anh vớ lấy một mẩu giấy - Tôi mượn cái bút.

Sato đưa cho anh cây bút trong túi bà.

- Xin hãy khẩn trương lên?

° ° °

Dưới tầng hầm, trong văn phòng Ban giám đốc Khoa học và Công nghệ, Nola Kaye nghiên cứu lại bản tài liệu tự soạn được chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish mang tới. Giám đốc CIA làm quái gì với tệp tin về kim tự tháp cổ và những địa điểm ngầm nhỉ? Cô vớ điện thoại và quay số.

Sato bắt máy ngay, giọng đầy căng thẳng.

- Nola, tôi vừa định gọi cho cô.

- Tôi có thông tin mới đây - Nola báo - Chưa biết thứ này có phù hợp không, nhưng tôi vừa phát hiện ra một tài…

- Gác lại đi, cho dù nó là gì, - Sato ngắt lời - Chúng ta không còn thời gian. Mục tiêu đã tẩu thoát, và tôi có đủ lý do tin rằng hắn sắp thực hiện lời đe doạ của mình.

Nola cảm thấy ớn lạnh.

- Tin tốt lành là chúng tôi biết chính xác hắn đi đâu - Sato hít một hơi thật sâu - Tin xấu là hắn mang theo một máy tinh xách tay.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 114

Cách đó chưa đầy mười dặm, Mal’akh kéo tấm chăn phủ quanh người Peter Solomon và đẩy ông băng qua bãi đỗ xe ngập ánh trăng để vào vùng bóng tối của một toà nhà đồ sộ. Công trình này có ba mươi ba cây cột ở bên ngoài… mỗi cột cao đúng ba mươi ba feet Hiện giờ quanh đây hoàn toàn vắng lặng, không ai nhìn thấy họ quay trở lại cả. Mà có cũng chẳng sao. Ai lại bận tâm nhiều về một người đàn ông cao lớn, lịch thiệp mặc áo choàng dài màu đen đưa một người tàn tật hói đầu đi dạo vào buổi tối cơ chứ.

Tới lối cửa hậu, Mal’akh đẩy Peter lại gần bảng khoá điện tử. Peter nhìn bàn phím vẻ thách thức, rõ ràng không có ý định nhập mã.

Mal’akh cười:

- Ông tưởng ông đến đây để giúp tôi vào trong à? Tôi là một huynh đệ của ông cơ mà, sao ông quên nhanh thế? - Gã vươn tay và nhập mã truy cập được phát sau lễ nhập môn lên cấp độ 33.

Cánh cửa nặng nề bật mở.

Peter gầm gừ và bắt đầu vùng vẫy trên xe lăn.

- Peter, Peter, - Mal’akh thủ thỉ - Hãy nhớ đến Katherine. Hãy hợp tác và cô ấy sẽ sống. Ông có thể cứu được cô ấy. Tôi thề đấy.

Mal’akh đẩy nạn nhân của gã vào trong và khoá cửa lại sau lưng, tim đập rộn ràng vì hi vọng. Gã đưa Peter qua vài hành lang, tới một cầu thang máy và ấn nút. Cửa mở ra. Mal’akh giật lùi vào trong, kéo theo chiếc xe lăn. Gã vươn tay và ấn nút trên cùng, cố ý để Peter nhìn rõ hành động của mình, vẻ kinh sợ cùng cực thoáng hiện trên gương mặt đau đớn của người đàn ông.

- Suỵt - Mal’akh thì thào, nhẹ nhàng xoa cái đầu nhẵn thín của Peter trong khi cửa thang máy đóng lại - ông biết đấy… bí mật là chết như thế nào mà.

° ° °

Mình không thể nhớ được tất cả các biểu tượng!

Langdon nhắm mắt lại, cố gắng hồi tưởng vị trí chính xác của từng biểu tượng ở đáy kim tự tháp, nhưng ngay cả trí nhớ thị giác của anh cũng chưa đạt được mức độ ấy. Anh ghi lại vài biểu tượng còn nhớ được sắp xếp chúng vào vị trí tương ứng theo chỉ dẫn của ma phương Franklin.

Tuy nhiên, anh vẫn chưa phát hiện điều gì có nghĩa.

- Xem kìa! - Katherine hối thúc - Anh đang đi đúng đường rồi đấy.

Hàng đầu tiên đều là chữ cái Hy Lạp, suy ra các biểu tượng cùng loại được sắp xếp bên nhau!

Langdon cũng nhận ra quy tắc đó, nhưng anh không tìm được từ Hy Lạp nào phù hợp với cấu trúc chữ cái và ô trống này. Mình cần ký tự đầu tiên. Anh lại liếc nhìn ma phương, cố gắng nhớ ra chữ cái nằm ở vị trí số 1 gần góc bên trái phía dưới. Nghĩ xem nào. Anh nhắm mắt, thử hình dung đế kim tự tháp. Hàng dưới cùng… cạnh góc bên trái… chữ gì ở đó nhỉ? Nhất thời, Langdon quay trở lại cái hòm, hoảng loạn ghê gớm, đăm đăm nhìn phần đáy kim tự tháp qua ô kính Plexiglas.

Đột nhiên, anh nhìn ra. Anh mở mắt, thở dốc.

- Chữ cái đầu tiên là Ή.

Langdon quay lại đồ hình và viết chữ cái đầu tiên. Từ ngữ vẫn chưa hoàn chỉnh, nhưng anh đã thấy đủ. Anh chợt nhận ra đó là từ gì.

Ήερεδομ

Tim đập thình thịch, Langdon gõ một lệnh tìm kiếm mới vào chiếc Blackberry. Anh nhập từ tiếng Anh tương đương của từ Hy Lạp nổi tiếng kia. Kết quả đầu tiên là một mục từ bách khoa toàn thư. Anh đọc và biết rằng chính là thứ mình đang tìm.

HEREDOM dt. Một từ quan trọng trong

Hội Tam điểm "cấp cao" xuất hiện trong sách

nghi lễ của tổ chức Thập tự Hoa hồng Pháp

để chỉ một ngọn núi huyền thoại ở Scotland,

nơi đặt cơ sở Tăng hội đầu tiên. Heredom

được dịch từ Ήερεδομ trong tiếng Hy Lạp,

nguyên gốc là Hieros-domos, nghĩa là Thánh điện.

- Đúng rồi! - Langdon sửng sốt kêu lên - Đó chính là nơi họ đến.

Sato đang đọc nội dung qua vai anh, nghe vậy liền lộ vẻ ngơ ngác.

- Đến ngọn núi huyền thoại ở Scotland à?

Langdon lắc đầu.

- Không, tới một toà nhà ở ngay Washington, có tên gọi mã hoá là Heredom.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 115

Thường được các huynh đệ biết đến bằng tên gọi Heredom, Thánh điện Hội Tam điểm luôn là chiếc vương miện của chi phái Scottish Rite ở Hoa Kỳ. Với phần mái hình kim tự tháp dốc tuột, toà nhà này được đặt theo tên một ngọn núi tưởng tượng ở Scotland. Tuy nhiên, Mal’akh biết rằng kho báu cất giấu tại đây hoàn toàn không phải chuyện tưởng tượng.

Chính là nơi này, gã biết như vậy. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ đường.

Khi chiếc thang máy cũ kỹ từ từ leo tới tầng ba, Mal’akh rút ra một mảnh giấy, trên đó vẽ đồ hình biểu tượng gã vừa sắp xếp lại nhờ sử dụng Ma phương Franklin. Tất cả các chữ cái Hy Lạp được chuyển lên hàng đầu tiên… cùng với một ký hiệu đơn giản.

Bức thông điệp rõ ràng tới mức không thể rõ ràng hơn được.

Ngay bên dưới Thánh điện.

Heredomâ

Từ Còn Thiếu ở đâu đó… quanh đấy.

Mặc dù Mal’akh chưa biết cụ thể làm cách nào xác định được nó, nhưng gã tự tin rằng câu trả lời nằm trong các biểu tượng còn lại của đồ hình. Thật tiện lợi là chính Peter Solomon sẽ có mặt hỗ trợ khi gã phá giải những bí mật của Kim tự tháp Tam điểm cũng như của toà nhà này. Không một ai thích hợp hơn ông. Đích thân Đại Huynh trưởng.

Peter tiếp tục vùng vẫy trên xe lăn, âm thanh tắc nghẹn bật ra qua nắm giẻ nhét trong miệng.

- Tôi biết ông lo lắng cho Katherine, - Mal’akh vỗ về - Nhưng cũng gần kết thúc rồi.

Với gã, dường như hồi kết đến thật đột ngột. Sau bao nhiêu năm đau đớn lên kế hoạch, chờ đợi và tìm kiếm… giờ đây thời khắc ấy đã đến.

Thang máy chạy chậm dần, Mal’akh cảm thấy vô cùng phấn khích.

Khoang thang máy giật mạnh và dừng lại.

Cánh cửa bằng đồng trượt mở, Mal’akh nhìn ra gian buồng rộng thênh thang trước mắt. Căn phòng hình vuông, rộng rãi, trang trí đầy những biểu tượng và ngập trong ánh trăng chiếu xuống qua mắt vòm ở đỉnh trần nhà cao vút phía trên.

Ta đã trở lại điểm xuất phát! Mal’akh nghĩ.

Phòng Thánh lễ chính là nơi Peter Solomon và các huynh đệ của ông dại dột kết nạp Mal’akh vào hàng ngũ của họ. Giờ đây, bí mật tối thượng của Hội Tam điểm, bí mật mà hầu hết các huynh đệ đều không tin là tồn tại, sắp vỡ lở hết rồi.

° ° °

- Hắn sẽ không tìm thấy gì đâu - Langdon nói trên đường theo Sato và những người khác ngược lên lối dốc bằng gỗ để ra khỏi gian hầm. Anh vẫn thấy mất phương hướng, bước đi còn loạng choạng - Không có Từ ngữ thật sự đâu. Nó chỉ là một ẩn dụ, một biểu tượng của những Bí mật cổ xưa.

Katherine theo sau, hai đặc vụ đỡ cô leo lên dốc.

Cả nhóm thận trọng bước qua tàn tích của cánh cửa thép, qua bức tranh xoay tròn và tiến vào phòng khách. Langdon giải thích với Sato rằng Từ Còn Thiếu là một trong những biểu tượng lâu đời nhất của Hội Tam điểm, chỉ có một từ thôi, viết bằng thứ ngôn ngữ bí hiểm tới mức ngày nay không ai dịch nổi nữa. Từ ngữ ấy, cũng như chính các Bí mật, hứa hẹn tiết lộ sức mạnh tiềm ẩn bên trong cho những người đã được khai sáng đủ để giải mã nó.

- Người ta nói rằng, - Langdon kết luận - ai sở hữu và hiểu được Từ Còn Thiếu… thì những Bí mật cổ xưa sẽ trở nên sáng tỏ với người đó.

Sato liếc mắt lại.

- Ông cho rằng gã này đang tìm kiếm một từ ngữ à?

Langdon phải thừa nhận rằng giả thuyết nghe chừng phi lý nếu xét ở giá trị bề mặt, nhưng nó lại giải đáp được rất nhiều câu hỏi.

- Tôi không phải là một chuyên gia về ma thuật nghi lễ - anh đáp - nhưng theo mớ tài liệu trên các bức tường ở tầng hầm nhà hắn… tôi có thể nói rằng hắn đang hy vọng tìm ra Từ Còn Thiếu và vẽ nó lên cơ thể mình.

Sato dẫn cả nhóm về phía phòng ăn. Bên ngoài, chiếc trực thăng đang khởi động, cánh quạt phành phạch càng lúc càng to.

Langdon vẫn lẩm bẩm.

- Nếu gã này thực sự tin rằng hắn sắp mở khoá sức mạnh của những Bí mật cổ xưa thì trong tư duy của hắn, không biểu tượng nào hiệu nghiệm hơn Từ Còn Thiếu. Chắc hắn nghĩ tìm ra nó và vẽ nó lên vị trí thiêng liêng như đỉnh đầu thì coi như hắn đã được trang điểm hoàn hảo và về mặt nghi thức, đã sẵn sàng… - Anh ngừng lại, nhìn Katherine. Cô đang tái nhợt trước ý nghĩ về số phận trứng treo đầu đẳng của Peter.

- Nhưng… anh Robert, - cô yếu ớt nói, giọng phập phù trong tiếng ầm ầm của cánh quạt trực thăng - Đây là tin tốt phải không? Nếu hắn muốn vẽ Từ Còn Thiếu lên đỉnh đầu trước khi hắn hy sinh Peter thì chúng ta vẫn còn thời gian. Hắn phải tìm thấy Từ ấy rồi mới giết Peter. Nên nếu không có Từ ấy…

Các đặc vụ đỡ Katherine ngồi xuống ghế. Langdon gắng tỏ vẻ hy vọng.

- Tiếc thay, Peter vẫn tưởng em đang chảy máu đến chết. Ông ấy cho rằng cách duy nhất để cứu em là hợp tác với gã điên… giúp hắn tìm Từ Còn Thiếu.

- Vậy thì sao? - Katherine bướng bỉnh - Nếu Từ Còn Thiếu không tồn tại…

- Katherine, - Langdon nhìn sâu vào mắt cô - Nếu anh tin rằng em đang chết dần, và nếu ai đó hứa với anh rằng anh có thể cứu em bằng cách tìm ra Từ Còn Thiếu, thì anh sẽ tìm cho hắn một từ, bất kỳ từ gì, rồi sau đó cầu Chúa để hắn giữ lời hứa.

° ° °

- Giám đốc Sato? - một đặc vụ hét to từ phòng bên - Bà nên xem thứ này!

Sato vội vã ra khỏi phòng ăn. Một đặc vụ đang đi từ phía cầu thang phòng ngủ xuống, mang theo một bộ tóc giả màu vàng. Cái quái gì thế?

- Tóc người, - anh ta nói, trao nó cho Sato - Tìm thấy trong phòng thay quần áo. Xin hãy nhìn kỹ vào.

Bộ tóc giả màu vàng nặng hơn Sato nghĩ. Phần chỏm dường như được tạo hình bằng một thứ keo đặc. Lạ là mặt bên dưới của bộ tóc có một sợi dây thò ra.

- Loại pin keo gắn vào lớp da đầu - đặc vụ giải thích - để chạy một máy quay sợi quang bé bằng đầu tăm giấu trong tóc.

- Sao cơ? - Sato sờ khắp bộ tóc, cuối cùng tìm thấy ống kính máy quay nhỏ xíu giấu kín lẩn trong phần tóc ngang trán - Đây là máy quay à?

- Máy quay video, - đặc vụ nói - Lưu trữ các đoạn phim bằng cái thẻ bán dẫn nhỏ xíu này - Anh ta chỉ vào một mẩu silicon cỡ bằng con tem dính chặt vào lớp da đầu - Có lẽ kích hoạt bằng cử động.

Lạy Chúa, Sato nghĩ thầm. Hoá ra đây là cách hăn thực hiện việc đó! Loại máy quay bí mật kiểu "bông hoa trên ve áo" này đóng vai trò then chốt trong cuộc khủng hoảng mà giám đốc OS phải đối mặt tối nay. Bà đăm đăm nhìn nó hồi lâu và trao lại cho người đặc vụ.

- Tiếp tục lục soát căn nhà - bà ra lệnh - Hễ tìm được thông tin gì về gã này thì báo cho tôi ngay. Máy tính xách tay của gã đã biến mất, và tôi muốn biết trong khi di chuyển gã định kết nối nó với thế giới bên ngoài ra sao. Hãy lục soát phòng làm việc xem có cẩm nang hướng dẫn, dây cáp hay bất kỳ thứ gì cung cấp manh mối về phần cứng của hắn không.

- Vâng, thưa bà - Anh chàng đặc vụ vội vã đi ra.

Thời gian đang cạn dần. Sato nghe rõ cánh quạt trực thăng quay ầm ầm ở tốc độ cao nhất. Bà vội vã trở lại phòng ăn, Simkins vừa dẫn Warren Bellamy từ máy bay vào và hỏi thêm thông tin về toà nhà mà họ tin là đích đến của đối tượng.

Thánh điện Hội Tam điểm.

- Cửa trước bị khoá trái - Bellamy nói, vẫn co ro trong tấm chăn và run lẩy bẩy từ lúc ở ngoài Quảng trường Franklin - Cửa sau toà nhà là lối duy nhất để các anh lọt vào. Nó có khoá điện tử, chỉ các huynh đệ biết mã PIN mới đi qua được.

- PIN là bao nhiêu? - Simkins hỏi, tay ghi chép luôn.

Bellamy ngồi xuống, trông yếu đến nỗi không đứng nổi. Ông đọc mã truy nhập của mình, hai hàm răng va vào nhau lập cập, và nói thêm:

- Địa chỉ là 1733 Phố 16. Nếu cần lái thẳng đến tận nơi và tìm chỗ đỗ thì ở sau toà nhà ấy. Phải khôn khéo một chút mới tìm được, nhưng…

- Tôi biết chính xác vị trí - Langdon lên tiếng - Tôi sẽ chỉ chỗ khi chúng ta tới đó.

Simkins lắc đầu.

- Ông không đi được, giáo sư ạ. Đây là một vụ quân sự…

- Thế quái nào mà tôi không đi được? - Langdon vặc lại - Peter đang ở đó. Toà nhà lại là một mê cung. Không có người dẫn đường, các vị sẽ mất đến mười phút để tìm được lối lên Phòng Thánh lễ!

- Anh ấy nói đúng đấy - Bellamy xác nhận - Thánh điện là một mê cung. Có thang máy, nhưng nó cũ và rất ồn, lại mở thẳng vào Phòng Thánh lễ. Nếu các vị định tiếp cận một cách lặng lẽ, thì nên dùng thang bộ.

- Các vị sẽ không tìm được lối đi đâu, - Langdon cảnh báo - Từ cửa hậu, các vị còn phải qua Sảnh Biểu chương, Sảnh Nghi thức, chiếu nghỉ giữa, Cửa chính, Cầu thang lớn…

- Được rồi, - Sato lên tiếng - ông Langdon sẽ đi cùng.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 116

Năng lượng đang tăng lên.

Trên đường đẩy Peter về phía bàn thờ, Mal’akh cảm thấy năng lượng rộn ràng trong gã, lúc trào lên lúc dịu xuống. Khi rời khỏi toà nhà này ta sẽ hùng mạnh hơn hẳn lúc ta bước vào. Giờ chỉ còn một việc là định vị thành tố cuối cùng thôi.

- Verbum significatium, - gã thì thầm tự nhủ - Verbum omnificum.

Mal’akh dừng chiếc xe lăn của Peter bên cạnh bàn thờ rồi bước vòng lên, mở cái túi nặng trịch đang đặt trên đùi ông. Gã thò tay vào trong, nhấc kim tự tháp đá ra và giơ nó lên phía ánh trăng, ngay trước mắt Peter, cho ông thấy rõ đồ hình biểu tượng khắc ở phần đáy.

- Suốt bao nhiêu năm, - gã chế nhạo - các người chẳng biết kim tự tháp giữ bí mật của nó như thế nào.

Mal’akh cẩn thận đặt kim tự tháp lên góc bàn thờ và quay lại chỗ cái túi - Và lá bùa này - gã vừa nói vừa lôi chóp vàng ra - quả thực lập lại trật tự từ hỗn loạn, đúng như lời hứa hẹn.

Gã cẩn thận đặt cái chóp lên chốc kim tự tháp đá, sau đó bước lùi lại để Peter nhìn cho rõ:

- Xem nào, biểu hình của ông đã hoàn tất.

Mặt Peter méo xệch, ông cố gắng nói nhưng không thành tiếng.

- Tốt lắm. Tôi nhận ra ông có điều muốn bộc bạch - Mal’akh giật mạnh búi giẻ.

Peter Solomon ho sặc sụa và mất vài giây thở hổn hển rồi mới cất tiếng được.

- Katherine…

- Thời gian của Katherine rất ít. Nếu ông muốn cứu cô ta, tôi khuyên ông thực hiện đúng điều tôi yêu cầu.

Bản thân Mal’akh cho rằng Katherine đã chết, nếu không thì cũng gần chết, nhưng chẳng có gì khác biệt. Cô còn may mắn là đã sống đủ lâu để nói lời tạm biệt với anh trai mình.

- Xin anh. - Peter nài nỉ, giọng ông run rẩy - Hãy gọi cấp cứu đến giúp cô ấy…

- Tôi sẽ làm như thế. Nhưng trước tiên ông phải cho tôi biết cách tiếp cận cầu thang bí mật.

Nét mặt Peter lộ rõ vẻ ngơ ngác.

- Sao cơ?

- Cầu thang. Truyền thuyết Tam điểm kể về một cầu thang dẫn đến vị trí bí mật chôn giấu Từ Còn Thiếu, cầu thang ấy ăn sâu xuống lòng đất hàng trăm thước.

Peter tỏ ra hoảng sợ.

- Ông biết truyền thuyết đó mà, - Mal’akh chế giễu - Một cầu thang bí mật ẩn dưới một tảng đá.

Gã trỏ bàn thờ trung tâm, bàn thờ này tạc từ đá hoa cương nguyên khối có khắc đòng chữ Do Thái mạ vàng: CHÚA PHÁN LỄ "PHẢI CÓ ÁNH SÁNG" VÀ THẾ LÀ CÓ ÁNH SÁNG.

- Nhất định là ở đây. Lối vào cầu thang chắc chắn được giấu ở một trong những tầng nhà phía dưới chúng ta.

- Làm gì có cầu thang bí mật trong toà nhà này! - Peter kêu lên.

Mal’akh mỉm cười kiên nhẫn và trỏ lên trên.

- Toà nhà giống một kim tự tháp - Gã chỉ nóc vòm có bốn cạnh vuốt nhọn lên tới chỗ mắt vuông chính giữa.

- Phải, Thánh điện là một kim tự tháp, nhưng cái gì…

- Peter, tôi có cả đêm đấy - Mal’akh vuốt lại tấm áo choàng lụa trắng tinh phủ ngoài cơ thể hoàn hảo của gã - Nhưng Katherine thì không đâu. Nếu muốn cô ta sống, ông hãy nói cho tôi biết cách tiếp cận cầu thang.

- Tôi đã bảo anh rồi - Peter tuyên bố - không có cầu thang bí mật nào trong toà nhà này.

- Không ư? - Mal’akh bình tĩnh lôi ra tờ giấy với đồ hình biểu tượng đã sắp xếp lại - Đấy là bức thông điệp cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm. Bạn của ông, Robert Langdon, đã giúp tôi giải mã nó.

Mal’akh giơ tờ giấy lên trước mặt Peter. Đại Huynh trưởng hít mạnh khi nhìn thấy nó. Không chỉ là 64 biểu tượng được sắp xếp lại thành từng nhóm có ý nghĩa rõ ràng… mà một hình ảnh thực sự đã nổi hẳn lên trên cả đống hỗn độn.

Bức hình một cầu thang… nằm dưới một kim tự tháp.

° ° °

Peter Solomon trân trối nhìn đồ hình biểu tượng mà không tin vào mắt mình. Kim tự tháp Tam điểm đã giữ kín bí mật hàng bao thế hệ và giờ đây, đột nhiên nó bị tiết lộ. Cảm giác lạnh buốt về một điềm gở gợn lên trong bụng ông.

Mật mã cuối của của kim tự tháp.

Thoạt nhìn, Peter chưa nắm bắt được ý nghĩa đích thực của những biểu tượng này, nhưng ông mau chóng hiểu ra tại sao gã đàn ông xăm trổ kia tin vào những điều gã tin.

Hắn tưởng có một cầu thang bí mật bên dưới kim tự thápHeredom.

Hắn đã hiểu sai các biểu tượng.

- Nó ở đâu? - Mal’akh hỏi - Chỉ cho tôi biết cách tìm ra cầu thang, và tôi sẽ cứu Katherine.

Ước gì ta có thể làm được điều đó, Peter nghĩ. Nhưng cầu thang không có thật. Truyền thuyết về cầu thang hoàn toàn là tượng trưng, là một phần của những phúng dụ trong Hội Tam điểm. Cầu thang Xoáy, như tên thường gọi, xuất hiện trên các bảng minh hoạ ở cấp độ 2. Nó đại diện cho sự thăng tiến về mặt tri thức, giúp con người vươn tới Chân lý Thiêng liêng. Tương tự chiếc thang của Jacob, cầu thang Xoáy là một biểu tượng về con đường lên thiên đàng, về hành trình đưa con người đến với Chúa, về sự liên kết giữa trần thế và tâm linh. Các bậc cấp của nó biểu hiện cho nhiều đức tính của trí tuệ.

Lẽ ra hắn phải hiểu điều đó, Peter nghĩ. Hắn đã trải qua đủ các lễ nhập môn.

Tất cả các huynh đệ nhập môn của Hội Tam điểm đều biết đến cầu thang biểu tượng mà mình sẽ leo lên, giúp mình "tham gia vào những bí mật của khoa học nhân văn". Hội Tam điểm, cũng như Lý trí học và những Bí mật cổ xưa, sùng kính tiềm năng chưa khai phá của trí tuệ con người, và nhiều biểu tượng của Hội Tam điểm có liên quan đến sinh lý học người.

Trí tuệ giống như chóp vàng toa lạc trên đỉnh cơ thể. Đó là Hòn đá Triết học. Qua cầu thang cột sống, năng lượng tràn lên hoặc chạy xuống, luân chuyển, liên kết trí tuệ thần thánh với cơ thể phàm tục.

Peter biết không phải ngẫu nhiên mà cột sống lại cấu thành từ đúng ba mươi ba đốt xương. Ba mươi ba là số cấp độ của Hội Tam điểm. Nền móng của cột sống, hay xương cùng, theo nghĩa đen là "chiếc xương thiêng". Trên thực tế, cơ thể là một thánh điện. Khoa học con người mà Hội Tam điểm tôn sùng là sự hiểu biết cổ xưa về cách sử dụng thánh điện ấy cho mục đích cao quý và hùng mạnh nhất của nó.

Tiếc thay, giải thích chân lý cho gã này cũng chẳng giúp được Katherine. Peter ngó đồ hình biểu tượng và thở dài cam chịu.

- Anh nói đúng - ông nói dối - Quả thực có một cầu thang bí mật nằm bên dưới toà nhà này. Hễ anh gọi người đến giúp Katherine, tôi sẽ dẫn anh tới đó.

Gã đàn ông xăm trổ chằm chằm nhìn ông.

Solomon trừng mắt nhìn lại, vẻ thách thức.

- Hoặc là cứu em gái tôi và tìm ra chân lý… hoặc là giết cả hai chúng tôi và không bao giờ biết gì hết.

Gã đàn ông lặng lẽ buông tờ giấy xuống và lắc đầu.

- Tôi không hài lòng với ông, Peter. Ông trượt bài kiểm tra của mình rồi. Ông vẫn tưởng tôi là thằng ngốc. Ông thực sự tin rằng tôi không hiểu những gì tôi đang tìm kiếm? Ông nghĩ rằng tôi chưa nắm được tiềm năng đích thực của tôi ư?

Nói xong, gã quay lưng lại và cởi tung áo choàng. Khi mảnh lụa trắng chấp chới đáp xuống nền, lần đầu tiên Peter nhìn thấy hình xăm dài chạy ngược theo sống lưng gã đàn ông.

Chúa ơi…

Từ chiếc khố trắng của gã chạy ngược lên là một cái cầu thang xoáy rất đẹp tiến đến giữa phần lưng cơ bắp. Mỗi bậc thang được đặt đúng vào một đốt sống. Peter không thốt nên lời, cứ để mắt mình lướt dọc theo cầu thang ấy, lướt tới tận cuống sọ của gã kia.

Ông chỉ biết trợn mắt nhìn.

Gã đàn ông xăm trổ ngửa cái đầu nhẵn thín ra sau, phô vòng da còn nguyên trên đỉnh. Viền quanh vòng da trơn đó là một con rắn cuộn tròn, trong tư thế tự cắn đuôi mình.

Rất chậm rãi, gã đàn ông nâng thẳng đầu dậy và xoay người lại đối mặt với Peter. Hình con phượng hoàng hai đầu trên ngực gã chòng chọc nhìn ông bằng cặp mắt chết.

- Tôi đang tìm Từ Còn Thiếu, - gã nói - ông sẽ giúp tôi chứ… hay muốn cả hai anh em đều mất mạng?

Ông biết cách tìm nó, Mal’akh nghĩ. Ông biết mà ông không nói cho tôi.

Peter Solomon đã tiết lộ nhiều điều trong cuộc thẩm vấn mà có lẽ giờ ông cũng chẳng nhớ nổi. Cứ liên tục bị nhốt vào cái hòm tiết chế cảm xúc kia rồi lại bị lôi ra, ông rơi vào trạng thái mê sảng và thành thử phục tùng hoàn toàn. Thật kỳ lạ, mọi điều ông bộc bạch đều phù hợp với truyền thuyết về Từ Còn Thiếu.

Từ Còn Thiếu không phải là một ẩn dụ… nó có thật. Từ ấy được viết bằng một ngôn ngữ lâu đời và được giấu kín đã nhiều năm rồi.

Ai thấu hiểu ý nghĩa thực sự của nó sẽ có cơ may tiếp thụ một bản lĩnh cao thâm. Từ ấy vẫn được giấu kín cho tới ngày nay… Kim tự tháp Tam điểm có thể tiết lộ nó.

- Peter, - Mal’akh soi mói nhìn từ nhân của mình - khi trông thấy đồ hình biểu tượng này. Ông đã phát hiện được điều gì đó. Ông đã khám phá ra rồi. Đồ hình có ý nghĩa với ông. Hãy cho tôi biết.

- Trừ phi khi anh tìm người đến giúp Katherine, tôi sẽ không nói gì hết!

Mal’akh mỉm cười.

- Lúc này đây, khả năng mất em gái chưa phải là mối lo cuối cùng của ông đâu. Tin tôi đi? - Không nói thêm một lời, gã quay lại chỗ cái túi của Langdon, lục lấy đồ đạc mà gã gói ghém lúc ở hầm nhà ra.

Sau đó, gã sắp xếp chúng lên bàn thờ hiến tế.

Một tấm lụa gấp gọn. Trắng tinh.

Một lư hương bạc. Cùng với nhựa thơm Ai Cập.

Một ống máu của Peter. Trộn với tro.

Một chiếc lông quạ đen. Cây bút thiêng của gã.

Con dao hiến sinh. Được rèn bằng thép lấy từ một khối thiên thạch trong sa mạc Canaan.

- Mày tưởng tao sợ chết ư? - Peter gào, giọng run lên vì đau khổ - Nếu Katherine chết, tao chẳng còn gì hết. Mày đã sát hại cả gia đình tao. Mày đã cướp đoạt mọi thứ của tao.

- Không phải mọi thứ - Mal’akh phủ nhận - Chưa đâu.

Gã tiếp tục lục túi lấy máy tính xách tay, bật lên và nhìn nạn nhân của mình.

- Tôi sợ rằng ông chưa ý thức được bản chất đích thực của tình thế khó khăn của chính ông đâu.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 117

Chiếc trực thăng CIA nhấc mình lên khỏi bãi cỏ, chao mạnh và tăng tốc thật nhanh. Langdon cảm thấy dạ dày như rơi ra, anh không ngờ trực thăng lại lao nhanh đến thế. Katherine ở lại để hồi sức, cùng với Bellamy, trong khi đó một đặc vụ CIA lùng sục toàn bộ khu nhà và đợi nhóm hỗ trợ đến.

Trước lúc Langdon đi, Katherine đã hôn lên má anh và thì thào:

- Bảo trọng nhé. Robert!

Cuối cùng máy bay cũng lấy được trạng thái thăng bằng và bắt đầu lao vù vù về phía Thánh điện Hội Tam điểm. Langdon phải bám thật chặt để giữ mạng sống. Ngồi bên cạnh anh, Sato nhoài người lên phía phi công.

- Tới Bùng binh Dupont! - bà hét to đến mức át cả tiếng máy bay đinh tai nhức óc - Chúng ta sẽ hạ cánh ở đó!

Giật mình, Langdon quay sang hỏi:

- Dupont hả? Chỗ đó cách Thánh điện đến vài dãy nhà đấy!

- Chúng ta có thể đáp xuống bãi đỗ xe của Thánh điện mà.

Sato lắc đầu.

Cần lặng lẽ thâm nhập toà nhà. Nếu mục tiêu nghe thấy chúng ta đến…

- Làm gì có thời gian - Langdon tranh luận - Thằng điên đang định giết Peter. Biết đâu tiếng trực thăng sẽ khiến hắn sợ và dừng tay.

Sato trợn trạo nhìn anh bằng đôi mắt lạnh lùng.

- Tôi đã bảo sự an toàn của Peter Solomon không phải là mục đích chính của tôi. Tôi tin rằng tôi đã nói đủ rõ.

Langdon không còn lòng dạ nào để tiếp nhận một bài giảng về an ninh quốc gia nữa:

- Này nhé, tôi là người duy nhất ở đây biết đường trong toà nhà…

- Cẩn thận đấy, Giáo sư, - giám đốc OS cảnh cáo - ông đến đây với tư cách thành viên trong đội của tôi, và ông phải hợp tác hoàn toàn - Ngừng lại một lát, bà nói thêm - Có lẽ hay hơn cả là tôi nên cho ông biết luôn mức độ nghiêm trọng của vụ việc tối nay.

Sato luồn tay xuống ghế, lôi ra chiếc cặp vỏ titan sáng bóng và mở nắp, để lộ một chiếc máy tính trông phức tạp dị thường. Khi bà bật nó lên, biểu tượng CIA xuất hiện cùng với khẩu lệnh truy cập.

Sato vừa đăng nhập vừa hỏi:

- Giáo sư có nhớ bộ tóc giả màu vàng chúng ta tìm thấy trong nhà gã kia không? Ở trong đó gắn một máy quay sợi quang cực nhỏ… giấu dưới lớp tóc trước trán.

- Một máy quay bí mật à? Tôi không hiểu.

Trông Sato thật dữ tợn.

- Ông sẽ hiểu thôi - Bà khởi động một tệp tin trên máy tính.

XIN CHỜ MỘT LÁT…

ĐANG GIẢI MÃ TỆP TIN…

Một cửa sổ video nhảy ra, choán hết màn hình. Sato nhấc chiếc cặp đặt lên đùi Langdon để anh xem được chính diện.

Một hình ảnh bất thường xuất hiện trên màn hình.

Langdon giật nảy mình vì sửng sốt. Lẽ nào?

Đoạn video tăm tối và âm u, quay cảnh một người bị bịt mắt. Anh ta mặc trang phục của một kẻ dị giáo thời Trung cổ bị dẫn lên giá treo cổ thòng lọng quấn quanh cổ, ống quần bên trái xắn lên đến đầu gối, ống tay áo bên phải vén lên đến khuỷu, và chiếc áo sơ mi để hở phơi ra bộ ngực trần.

Langdon trợn mắt nhìn, không tin nổi. Anh đã đọc rất nhiều về các nghi thức của Hội Tam điểm nên nhận ra ngay cảnh tượng đang xem.

Một huynh đệ nhập môn của Hội Tam điểm… chuẩn bị bước vào cấp độ thứ nhất.

Người đàn ông này rất cao, cơ bắp cuồn cuộn, có mái tóc giả màu vàng quen thuộc và nước da rám nắng. Langdon nhận ra đặc điểm của gã ngay lập tức. Những hình xăm rõ ràng đã được che giấu dưới lớp hoá trang màu đồng hun kia. Gã đang đứng trước một tấm gương lớn, ghi hình phản chiếu của chính mình qua chiếc máy quay giấu kín trong bộ tóc giả.

Nhưng… tại sao chứ?

Màn hình chuyển sang màu đen.

Đoạn phim mới xuất hiện. Một căn phòng nhỏ hình chữ nhật, thắp sáng lờ mờ. Sàn nhà lát gạch đen trắng như bàn cờ trông rất ấn tượng.

Một bàn thờ thấp bằng gỗ, xung quanh ba phía là những cây cột, đỉnh cột gắn nhiều ngọn nến đang cháy bập bùng.

Langdon chợt cảm thấy e sợ.

Lạy Chúa!

Ghi hình một cách tuỳ tiện theo dạng video gia đình nghiệp dư, lúc này chiếc máy quay lia quanh toàn bộ căn phòng, cho thấy một nhóm người đang quan sát kẻ mới nhập môn. Những người ấy đều mặc y phục hành lễ của Hội Tam điểm. Trong bóng tối, Langdon không thể nhận diện họ, nhưng anh biết rõ nghi lễ này diễn ra đâu.

Bố cục truyền thống của Phòng Chi hội có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng phần trán tường hình tam giác màu xanh dương bên trên ghế huynh trưởng cho thấy đây chính là Chi Hội Tam điểm cổ xưa nhất tại Thủ đô nước Mỹ - Chi hội Potomac số 5 - trụ sở của George Washington và các bậc tiền bối Hội Tam điểm, những người đã đặt nền móng cho toà Nhà Trắng và Điện Capitol.

Chi hội ấy vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay.

Peter Solomon, ngoài việc trông nom Thánh điện, còn là huynh trưởng của chi hội địa phương mình. Chính những chi hội này là nơi bắt đầu hành trình của một huynh đệ Tam điểm mới nhập môn… nơi người đó trải qua ba cấp độ đầu tiên của hội viên.

- Các huynh đệ - giọng nói quen thuộc của Peter vang lên - nhân danh Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ, ta mở chi hội này để thực hiện nghi thức dành cho cấp độ thứ nhất của Hội Tam điểm!

Một tiếng búa nện rất to.

Langdon sững sờ theo dõi, đoạn video tiếp tục chạy qua hàng loạt hình ảnh mờ chồng cho thấy Peter Solomon đang thực hiện một số thủ tục khắc nghiệt của nghi lễ.

Ấn một lưới dao găm sáng loáng vào bộ ngực trần của kẻ mới nhập môn… doạ sẽ đóng cọc xuyên qua người nếu kẻ nhập môn tiết lộ những bí mật của Hội Tam điểm… mô tả rằng nền nhà đen trắng là biểu hiện cho sự sống và cái chết… phác hoạ những hình phạt, trong đó có cắt ngang họng, rút lưỡi, và chôn thây dưới lớp cát thô đáy biển…"

Langdon chằm chằm theo dõi. Mình đang chứng kiến cảnh này thật đấy à? Nhiều thế kỷ qua, Hội Tam điểm vẫn giữ kín nghi thức nhập môn của họ. Những mô tả duy nhất từng được tiết lộ là từ một bản viết tay của đám huynh đệ ly khai. Dĩ nhiên Langdon đã đọc tài liệu ấy nhưng tận mắt xem một nghi thức nhập môn thì… lại là chuyện khác hẳn.

Nhất là được biên tập theo kiểu này. Langdon có thể nói rằng đoạn video là một ấn phẩm tuyên truyền rất lệch lạc, loại bỏ mọi khía cạnh cao quý của nghi thức nhập môn và chỉ nhấn mạnh những gì gây hoang mang nhất. Nếu đoạn video này bị tiết lộ. Langdon biết nó sẽ trở thành tin giật gân trên Internet chỉ trong một đêm. Những nhà lý thuyết có tư tưởng bài Tam điểm sẽ xâu xé đoạn phim này như lũ cá mập. Tổ chức Hội Tam điểm, và đặc biệt là Peter Solomon, sẽ phải hứng chịu cả một trận bão lửa những cuộc luận chiến và sẽ phải ra sức giải quyết hậu quả một cách tuyệt vọng… cho dù nghi thức này vô hại và hoàn toàn chỉ mang tính tượng trưng.

Rất kỳ quái, đoạn video còn gộp cả một câu tham chiếu trong Kinh thánh nói đến việc hiến sinh người… "Abraham hy sinh Isaac, con trai đầu lòng của ngài để dâng tặng cho Đấng Chí tôn". Langdon nghĩ đến Peter và chỉ mong trực thăng bay nhanh hơn nữa.

Đoạn video đổi cảnh.

Vẫn căn phòng đó, vào một đêm khác. Một nhóm khá đông các huynh đệ Hội Tam điểm đứng quanh chứng kiến. Peter Solomon đang quan sát từ trên ghế huynh trưởng. Đây là cấp độ thứ hai. Giờ còn căng thẳng hơn. Quỳ bên bàn thờ… thề mãi mãi giấu kín những bí mật đang tồn tại trong Hội Tam điểm… cam lòng chịu hình phạt rạch toang ngực và ném quả tim đang phập phồng lên mặt đất làm mồi cho lũ thú đói…

Tim Langdon đập dữ dội khi đoạn video chuyển cảnh lần nữa.

Một buổi tối khác. Một đám người đông hơn nhiều. Một cái "bàn trang trí" chẳng khác gì chiếc áo quan nằm trên sàn.

Cấp độ ba.

Đây là nghi thức chết - nghi thức khắc nghiệt nhất trong tất cả các cấp độ thời khắc hội viên nhập môn buộc phải "đối mặt với thách thức cuối cùng của sự đoạn tuyệt cá nhân". Quá trình thẩm vấn căng thẳng này trên thực tế chính là nguồn gốc của cụm từ phổ biến đưa lên cấp độ ba 1. Mặc dù Langdon rất quen với những bài viết học thuật về nó, tâm lý anh vẫn chưa sẵn sàng chứng kiến cảnh tượng trên màn hình.

Kẻ giết người.

Bằng những xen cảnh nhanh, hung tợn, đoạn video trình chiếu một bản mô tả kinh rợn, theo quan điểm của nạn nhân, về kẻ giết người tàn bạo. Có những cú đánh giả vờ vào đầu, kể cả cú đánh bằng chiếc vồ đá thợ nề. Trong lúc đó, một người trợ tế rầu rĩ kể lại câu chuyện "con trai bà goá" Hiram Abiff, kiến trúc sư chính xây Đền thờ Vua Solomon, ông này đã chọn cái chết thay vì phải tiết lộ tri thức bí mật mình đang nắm giữ.

Dĩ nhiên, cảnh đánh đập này được diễn câm, nhưng hiệu ứng của nó trên máy quay rất kinh dị. Sau cú đánh gây tử thương, kẻ nhập môn - lúc này "đã chết với bản ngã cũ của mình" - được đặt vào chiếc quan tài tượng trưng, được vuốt mắt và xếp tay vắt chéo hệt như một tử thi. Các huynh đệ Tam điểm đứng lên và rầu rĩ đi vòng tròn xung quanh anh ta trong khi một chiếc đàn ống tấu lên hành khúc đưa ma.

Cảnh tượng rùng rợn đó thực sự gây hoang mang.

Và nó càng tồi tệ hơn nữa.

Khi mọi người tụ tập quanh vị huynh đệ bị giết chết ấy, máy quay bí mật liền chiếu rõ gương mặt họ. Lúc này, Langdon nhận ra không chỉ có Solomon là nhân vật nổi tiếng duy nhất trong phòng. Một trong những người đang đăm đăm nhìn xuống kẻ nhập môn nằm trong quan tài là người xuất hiện trên truyền hình gần như hằng ngày.

Một Thượng nghị sĩ có tiếng của Hoa Kỳ.

Lạy Chúa…

Cảnh lại thay đổi. Cảnh ngoài trời… ban đêm… vẫn là thước phim video chập chờn… gã đàn ông đang đi dọc một con phố… những sợi tóc vàng phất phơ trước máy quay… rẽ ở một góc phố… góc máy quay hạ thấp xuống một thứ gì đó trong tay gã đàn ông… tờ bạc một đô la… cận cảnh lên dấu Quốc ấn… hình Thấu nhãn… hình kim tự tháp xây dở dang… và sau đó, rất đột ngột, xoay đi để cho thấy một hình thù tương tự phía xa… một toà nhà hình kim tự tháp đồ sộ…với các mặt dốc chạy lên đến phần đỉnh hình chóp cụt.

Thánh điện Hội Tam điểm.

Một cảm giác hãi hùng tận đáy lòng trào lên trong Langdon.

Đoạn video tiếp tục chạy… gã đàn ông đi nhanh về phía toà nhà…leo lên phần bậc thang chia làm nhiều cấp… tiến về phía những cánh cửa bằng đồng đồ sộ… giữa hai nhân sư canh gác nặng mười bảy tấn.

Một kẻ mới nhập đạo đang tiến vào kim tự tháp khai tâm.

Giờ thì tối hoàn toàn.

Đàn ống ngân nga phía xa… và hình ảnh mới xuất hiện.

Phòng Thánh lễ.

Trên màn hình, một không gian trông như lòng hang được thắp sáng bằng điện. Bên dưới mắt vòm của trần nhà, một chiếc bàn bằng đá cẩm thạch đen sáng bóng đang ngập trong ánh trăng. Tụ tập xung quanh nó, ngồi trên những chiếc ghế bọc da lợn chế tác bằng tay, là một hội đồng gồm những huynh đệ Hội Tam điểm ở cấp độ 33 đầy uy nghi đang chờ đợi thời khắc làm nhân chứng. Đoạn video lia qua mặt họ, chầm chậm một cách cố ý.

Langdon kinh hãi quan sát.

Mặc dù anh chưa hình dung được những sự kiện tiếp theo, nhưng cảnh đang xem cũng đủ gây ấn tượng. Buổi họp mặt của những huynh đệ Tam điểm hoàn hảo và tôn quý nhất trong thành phố hùng mạnh nhất trên trái đất này đương nhiên sẽ phải bao gồm nhiều nhân vật nổi tiếng và đầy ảnh hưởng. Chắc hẳn ngồi xung quanh bàn thờ, chỉnh chu với găng tay lụa, tạp dề của Hội Tam điểm và những đồ trang sức lấp lánh kia sẽ là một số nhân vật có thế lực nhất nước Mỹ.

Hai thẩm phán Toà án Tối cao…

Bộ trưởng Quốc phòng…

Chủ tịch Hạ viện…

Langdon cảm thấy hãi hùng khi đoạn video tiếp tục lia ngang qua gương mặt của những người tham dự.

Ba Thượng nghị sĩ nổi tiếng… trong đó có thủ lĩnh phe đa số…

Bộ trưởng An ninh nội địa…

Và…

Giám đốc CIA…

Langdon chỉ muốn ngoảnh mặt đi, nhưng không thể được. Cảnh phim thật sự rất cuốn hút, và gây hoảng sợ ngay cả với anh. Trong chớp mắt, anh hiểu ra căn nguyên nỗi lo lắng và sốt ruột của Sato.

Giờ đây, trên màn hình, nền cảnh mờ dần và tập trung vào một hình ảnh cực kỳ gây sốc.

Một cái sọ người… đựng đầy chất lỏng đỏ sẫm. Chính bàn tay xương xương với chiếc nhẫn Tam điểm bằng vàng lấp lánh trong ánh nến của Peter đang đưa cái đầu lâu đến tận mặt kẻ nhập môn. Thứ chất lỏng màu đỏ chính là rượu vang… nhưng trông chẳng khác gì máu. Hiệu ứng hình ảnh thật hãi hùng.

Lễ cúng rượu thứ 5, Langdon nhận ra vì anh đã đọc nhiều tài liệu về phép bí tích này trong cuốn Ghi chép về Thể chế Hội Tam điểm của John Quincy Adam. Mặc dù vậy, khi nhìn nghi lễ này diễn ra… nhìn cảnh những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ thản nhiên chứng kiến… Langdon phải thừa nhận rằng đây là hình ảnh nhiều ma lực nhất mà anh từng xem.

Kẻ nhập môn đón cái sọ bằng hai tay… khuôn mặt gã phản chiếu trong bề mặt rượu vang khá phẳng lặng. "Nếu tôi cố tình vi phạm lời thề", gã tuyên bố, " thì thứ rượu tôi sắp uống đây sẽ biến thành thuốc độc giết chết tôi"

Rõ ràng, kẻ nhập môn đã cố ý vi phạm lời thề, vi phạm tới mức vượt xa mọi sự tưởng tượng.

Langdon không dám để tâm trí mình nghĩ đến hậu quả xảy ra nếu đoạn video này được công bố cho bàn dân thiên hạ biết. Sẽ không một ai hiểu. Chính phủ sẽ rơi vào tình trạng biến động bất thường. Các sóng phát thanh truyền hình sẽ tràn ngập tiếng nói của những nhóm bài Tam điểm, những người theo trào lưu chính thống, những nhà lý luận lớn tiếng reo rắc thù hận sợ hãi, đòi phát động một cuộc săn lùng phù thuỷ Thanh giáo nữa.

Sự thật sẽ bị bóp méo, Langdon biết rõ như vậy. Với Hội Tam điểm, luôn là thế.

Sự thật rằng hội huynh đệ này chú trọng đến cái chết trên thực tế là một hình thức táo bạo nhằm tôn vinh sự sống. Nghi thức của Hội Tam điểm được vạch ra nhằm đánh thức con người đang ngủ say bên trong, nâng anh ta khỏi chiếc áo quan tăm tối là sự thiếu hiểu biết của chính mình, đưa anh ta đến với ánh sáng, và đem lại cho anh ta nhãn quan để nhìn. Phải trải nghiệm cái chết thì con người mới thực sự hiểu cách sống. Phải nhận ra rằng những ngày tồn tại trên cõi đời là hữu hạn thì anh ta mới hiểu được tầm quan trọng của việc tận dụng những ngày tháng ấy mà sống cho danh dự, chính trực, và phục vụ đồng bào mình.

Những lễ khai tâm của Hội Tam điểm gây sốc bởi vì chúng mang ý nghĩa biến cải.

Những lời tuyên thệ của Hội Tam điểm khắc nghiệt bởi vì chúng mang ý nghĩa nhắc nhở rằng danh dự và "lời hứa", của con người đều có thể đạt được từ thế giới này.

Những lời răn dạy của Hội Tam điểm mang tính bí mật bởi vì chúng có ý nghĩa phổ cập… được truyền đạt qua ngôn ngữ chung của nhiều biểu tượng và ẩn dụ lan toả khắp mọi tôn giáo, văn hoá và chủng tộc… tạo ra một "nhận thức thống nhất trên toàn thề giới", về tình yêu thương bác ái.

Trong khoảnh khắc, Langdon cảm thấy le lói chút hy vọng. Anh cố gắng trấn an mình rằng nếu đoạn video này được tiết lộ, công chúng sẽ đủ cởi mở và vị tha để nhận ra rằng mọi nghi lễ tinh thần đều bao gồm những khía cạnh có vẻ đáng sợ nếu tách ra khỏi bối cảnh của chúng, chẳng hạn tái hiện cảnh đóng đinh trên thập giá, những nghi thức cắt bao quy đầu của Do Thái, lễ rửa tội cho người chết của Mormon giáo, những câu thần chú của Công giáo, mạng che mặt của Hồi giáo, cách chữa bệnh bằng thôi miên của các pháp sư, nghi lễ chuộc lỗi Kaparot của người Do Thái, và thậm chí nghi lễ ăn máu thịt mang tính ẩn dụ của Chúa Ki tô.

Mình đang mơ rồi, Langdon biết như vậy. Đoạn video này sẽ gây ra hỗn loạn. Anh có thể hình dung được những gì sẽ xảy ra nếu những nhà lãnh đạo hàng đầu của nước Nga hay của thế giới Hồi giáo mà xuất hiện trong một đoạn video với hành động ấn dao vào ngực trần, tuyên thệ bằng những lời lẽ rùng rợn, mô phỏng hành vi giết người, nằm trong những chiếc quan tài mang tính biểu tượng, và uống rượu vang từ một cái sọ người. Những tiếng la ó trên toàn thế giới xuất hiện ngay lập tức và lan tràn khắp nơi.

Chúa giúp chúng con…

Lúc này, trên màn hình, kẻ nhập môn đang nâng chiếc sọ người lên môi. Gã dốc ngược nó… uống cạn chỗ rượu vang đỏ như máu… kết thúc lời thề của mình. Sau đó, gã hạ chiếc sọ xuống và trừng trừng nhìn đám đông tụ tập xung quanh. Những con người quyền thế và đáng tin cậy nhất nước Mỹ đều gật đầu chấp nhận.

"Xin chào huynh đệ", Peter Solomon tuyên bố.

Khi hình ảnh nhoà đi thành một màn đen, Langdon mới nhận ra mình đã nín thở.

Không nói một lời, Sato nhoài tới, đóng cặp lại và nhấc nó khỏi đùi anh. Langdon quay sang phía bà, anh định nói nhưng không tìm ra lời lẽ nào. Không sao cả. Nét mặt anh đã thể hiện rõ những gì anh hiểu. Sato nói đúng. Tối nay là một vụ khủng hoảng an ninh quốc gia… có tầm vóc không thể tưởng tượng nổi.

--- ------ ------ ------ -------

1 Nguyên văn thành ngữ này trong tiếng Mỹ là To give someone the third degree có nghĩa là lục vấn, tra khảo, chỉ việc dùng biện pháp cứng rắn, gay gắt để thu thập thông tin của người khác - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 118

Chỉ mặc độc chiếc khố, Mal’akh rảo bước đi đi lại lại trước chiếc xe lăn của Peter Solomon.

- Peter - gã thì thào, thích thú tận hưởng từng khoảnh khắc khiếp hãi của nạn nhân - ông quên rằng ông còn một gia đình thứ hai,… đó là các huynh đệ Tam điểm, và tôi sẽ huỷ hoại cả họ, trừ phi ông giúp tôi.

Trông Solomon gần như hoảng loạn trong quầng sáng của chiếc máy tính xách tay đặt trên đùi ông.

- Xin anh, - cuối cùng ông cũng lắp bắp, mắt ngước lên - Chẳng may đoạn video này tung ra…

- Chẳng may? - Mal’akh cười - Chẳng may ư?

Gã ra hiệu về phía chiếc modem nhỏ xíu cắm bên máy tính, đây là loại modem truy cập Internet thông qua sóng điện thoại di động - Tôi đang kết nối với toàn thế giới.

- Anh không…

Ta sẽ, Mal’akh nghĩ, thích thú trước sự sợ hãi của Solomon.

- Ông có khả năng ngăn tôi lại, - gã nói - Và cứu em gái ông. Nhưng ông phải tiết lộ những điều tôi muốn biết. Từ Còn Thiếu được giấu ở đâu đó, Peter, và tôi chắc chắn đồ hình này chỉ dẫn chính xác chỗ để tìm ra nó.

Peter lại liếc đồ hình biểu tượng, ánh mắt không biểu lộ gì cả.

- Có lẽ thứ này sẽ gợi cảm hứng cho ông - Mal’akh vươn tay qua vai Peter và gõ một vài phím trên máy tính. Một chương trình thư điện tử khởi động trên màn hình, và Peter cứng đờ người. Trước mắt ông là một bức thư điện tử mà Mal’akh đã chuẩn bị sẵn lúc chập tối: một tệp tin video được gửi tới một danh sách dài những mạng truyền thông lớn.

Mal’akh mỉm cười.

- Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta cùng chia sẻ, phải không?

- Đừng!

Mal’akh cúi xuống và nhấn nút gửi trên chương trình. Peter vùng vẫy giật những sợi dây trói, cố gắng hất chiếc máy tính xuống sàn nhưng vô hiệu.

- Bình tĩnh đi. Peter, - Mal’akh thì thào - Đây là một tệp tin rất lớn.

Phải mất vài phút mới gửi đi được.

Gã trỏ tay vào thanh tiến trình:

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 2%

- Nếu ông cho tôi biết điều tôi cần, tôi sẽ dừng thư điện tử, và không bao giờ còn ai trông thấy nó cả.

Peter tái mét mặt. Thanh công cụ cứ nhích dần lên.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 4%

Mal’akh nhấc chiếc máy tính khỏi đùi Peter và đặt nó lên một trong những chiếc ghế da lợn gần đó, xoay màn hình để người đàn ông nhìn thấy quá trình xử lý. Sau đó, gã quay trở lại bên cạnh Peter và đặt trang biểu tượng lên đùi ông.

Truyền thuyết nói rằng Kim tự tháp Tam điểm sẽ tiết lộ Từ Còn Thiếu. Đây là mật mã cuối cùng của kim tự tháp. Tôi tin ông biết cách đọc nó.

Mal’akh liếc về phía chiếc máy tính.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 8%.

Rồi gã đưa mắt nhìn lại Peter. Solomon đang trừng trừng nhìn gã, đôi mắt xám rực lên căm hờn.

Căm ghét ta, Mal’akh nghĩ. Càng ghét thì năng lượng giải phóng khi hoàn tất nghi lễ càng mạnh mẽ.

° ° °

Tại Langley, Nola Kaye áp chặt điện thoại vào tai, khó khăn lắm mới nghe ra tiếng Sato giữa tiếng ồn của trực thăng.

- Họ nói không thể chặn được việc truyền tệp tin? - Nola gào lên - Phải mất ít nhất một tiếng mới tắt được các ISP địa phương, và nếu hắn truy cập được vào một địa chỉ cung cấp không dây thì việc tắt Internet mặt đất cũng không ngăn được hắn gửi nó đi đâu.

Ngày nay, việc chặn dòng thông tin số đã trở thành gần như không thực hiện được. Có quá nhiều kênh truy cập vào Internet. Giữa các đường hữu tuyến, các điểm nóng Wi-fi, các modem dùng sóng di động, điện thoại vệ tinh, siêu điện thoại, và thiết bị hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân tích hợp thư điện tử, cách duy nhất để cô lập việc tiết lộ dữ liệu là phá huỷ máy nguồn.

- Tôi đã xem bản chỉ dẫn của chiếc UH-60 mà sếp đang bay, - Nola nói - và hình như sếp được trang bị EMP.

Súng xung điện từ EMP hiện nay rất phổ biến trong các cơ quan thực thi pháp luật, sử dụng vào mục đích cơ bản là kết thúc các pha rượt đuổi xe hơi từ một khoảng cách an toàn. Bằng cách bắn một xung phóng xạ điện tử cường độ cao, một khẩu súng EMP có thể làm cháy hệ thống điện tử của bất kỳ thiết bị nào nó nhắm tới, từ xe hơi, điện thoại di động đến máy tính. Theo bản chỉ dẫn Nola đang cầm, chiếc UH-60 có một súng xung điện từ 6 gigahertz ngắm bắn bằng la-de gắn ở gầm máy bay, với ống phóng 50 db sinh ra xung lực 10 gigawatt. Nếu bắn thẳng vào một máy tính xách tay, xung lực sẽ làm cháy mạch chủ của máy tính và lập tức xoá sạch ổ cứng.

- EMP cũng vô dụng, - Sato hét vọng lại - Mục tiêu ở bên trong một toà nhà bằng đá. Lớp chống điện từ rất dày, lại không có đường ngắm. Cô đã phát hiện ra chỉ số nào cho biết đoạn video được gửi đi chưa?

Nola liếc nhìn màn hình thứ hai, nó đang chạy một lệnh tìm kiếm liên tục các tin thời sự đột xuất về Hội Tam điểm.

- Chưa, thưa sếp. Nhưng nếu nó lọt ra, chúng ta sẽ biết chỉ trong vài giây thôi.

- Cập nhật tin cho tôi nhé - Sato tắt máy.

° ° °

Chiếc trực thăng lao lao bổ xuống Bùng binh Dupont. Langdon nín thở. Một vài khách bộ hành dạt ra khi chiếc máy bay hạ độ cao qua khoảng trống giữa các tán cây và đáp xuống bãi cỏ ngay phía nam đài phun nước hai tầng nổi tiếng do chính hai kiến trúc sư Đài tưởng niệm Lincoln thiết kế.

Ba mươi giây sau, Langdon đã có mặt trên một chiếc Lexus SUV bị trưng dụng, phóng nhanh trên Đại lộ New Hampshire về phía Thánh điện Hội Tam điểm.

° ° °

Peter Solomon cố gắng một cách tuyệt vọng để nghĩ xem nên làm gì. Trong đầu ông toàn là hình ảnh Katherine đang chảy máu dưới tầng hầm… và đoạn video vừa xem. Ông chậm rãi ngoái đầu về phía máy tính xách tay trên chiếc ghế da lợn cách đó vài thước. Thanh tiến trình gần như đã đầy được một phần ba.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 29%

Gã đàn ông xăm trổ chậm rãi bước thành vòng tròn quanh chiếc bàn thờ hình vuông, tay đung đưa một lư hương cháy đỏ và miệng ư ử ngâm nga. Từng cuộn khói trắng đặc quánh bốc lên trời. Mắt gã mở to dường như gã đang nhập hồn. Peter đưa mắt nhìn con dao cổ đang nằm chờ đợi trên vuông lụa trắng phủ ngang qua bàn thờ.

Peter Solomon tin chắc rằng đêm nay ông sẽ chết trong thánh đường này. Vấn đề là chết như thế nào. Ông sẽ tìm cách cứu em gái và hội huynh đệ của mình… hay cái chết của ông sẽ hoàn toàn vô nghĩa?

Solomon lại nhìn xuống đồ hình biểu tượng. Lần đầu tiên để mắt tới nó, tâm trạng bất ngờ đã khiến ông lú lẫn… không cho ông nhìn thấu qua bức màn hỗn loạn để phát hiện ra sự thật đáng kinh ngạc.

Tuy nhiên, lúc này, ý nghĩa thực sự của những biểu tượng hiện lên rõ ràng trước mắt ông. Ông nhìn đồ hình bằng một ánh sáng hoàn toàn mới và biết chính xác mình cần phải làm gì.

Hít một hơi thật sâu, ông ngước nhìn lên vầng trăng qua mắt vòm bên trên. Sau đó ông bắt đầu lên tiếng.

° ° °

Những chân lý vĩ đại đều rất đơn giản.

Mal’akh đã biết điều đó từ lâu.

Câu trả lời mà Peter Solomon đưa ra tuyệt vời và giản dị đến mức Mal’akh tin chắc rằng nó chỉ có thể là sự thực. Thật ngạc nhiên, đáp án cho bức mật mã cuối cùng của kim tự tháp lại đơn giản hơn rất nhiều so với gã tưởng tượng.

Từ Còn Thiếu ở ngay trước mắt ta.

Chỉ thoáng chốc, một tia sáng chói loà xé toang màn tối của lịch sử và những truyền thuyết bao bọc xung quanh Từ Còn Thiếu. Đúng như lời hứa hẹn, Từ Còn Thiếu được viết bằng một ngôn ngữ cổ xưa và chứa đựng sức mạnh thần kỳ của tất cả mọi triết lý, tôn giáo và khoa học từng được con người biết đến. Giả kim, chiêm tinh, Kabbalah, Thiên Chúa giáo phật giáo, Thập tự Hoa hồng, Hội Tam điểm, thiên văn học, vật lý, Lý trí học…

Giờ đây, đứng trong căn phòng khai tâm trên đỉnh kim tự tháp Heredom vĩ đại, Mal’akh ngước nhìn kho báu mà gã tìm kiếm suốt bao năm, và gã biết mình không thể chuẩn bị cho bản thân hoàn hảo hơn được nữa.

Ta sắp hoàn tất rồi.

Từ Còn Thiếu đã được tìm thấy.

° ° °

Tại Kalorama Heights, một đặc vụ CIA đứng giữa cả đống đồ thải bừa bộn mà anh vừa dốc ra khỏi những thùng rác trong nhà để xe.

- Cô Kaye? - anh điện thoại cho chuyên gia phân lịch của Sato - Lục lọi thùng rác của gã là ý tưởng rất hay. Tôi nghĩ tôi vừa tìm được gì đó.

° ° °

Trong nhà, mỗi thời khắc qua đi, Katherine Solomon lại cảm thấy khỏe hơn. Nhờ truyền dung dịch Ringer nên huyết áp của cô tăng lên và cơn đau đầu dịu hẳn. Giờ cô đang ngồi nghỉ ngơi trong phòng ăn theo lời chỉ dẫn phải bất động. Song thần kinh của cô rất căng thẳng, càng lúc cô càng nôn nóng muốn biết tin tức của anh trai mình.

Mọi người đâu cả rồi? Nhóm pháp y của CIA vẫn chưa đến, anh chàng đặc vụ ở lại đang bận tìm kiếm. Bellamy vốn ngồi cùng cô ở phòng ăn, quấn chặt mình trong chiếc chăn, nhưng giờ ông đã lang thang tìm thêm thông tin đặng giúp CIA cứu được Peter.

Không thể ngồi im được nữa, Katherine cố gắng đứng lên, lảo đảo, sau đó chậm rãi nhích dần về phía phòng khách. Cô thấy Bellamy bên phòng làm việc. Kiến trúc sư đang đứng trước một ngăn kéo mở toang, lưng quay về phía cô, rõ ràng đang rất tập trung vào những thứ bên trong nên không nghe thấy tiếng chân bước vào.

Katherine tiến lại gần ông.

- Warren?

Ông già loạng choạng quay lại, dùng hông đóng vội ngăn kéo, mặt còn bàng hoàng và đau đớn, hai má nguyên dấu lệ.

- Có chuyện gì vậy? - Katherine nhìn xuống ngăn kéo - Gì thế ạ?

Bellamy không sao nói nên lời. Trông như thể ông vừa nhìn thấy một thứ rất không mong muốn.

- Cái gì ở trong ngăn kéo thế? - Katherine gặng hỏi.

Đôi mắt đẫm lệ của Bellamy dán chặt lấy cô trong một lúc lâu sầu thảm, cuối cùng ông lên tiếng.

- Cô và tôi cứ băn khoăn tại sao, tại sao gã này tỏ ra căm ghét gia đình cô đến vậy.

Katherine nhíu mày.

- Ôi, - Bellamy nghẹn ngào - Tôi vừa tìm ra câu trả lời.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 119

Trong căn phòng trên đỉnh Thánh điện Hội Tam điểm, kẻ tự gọi mình là Mal’akh đứng trước chiếc bàn thờ lớn và nhẹ nhàng xoa lớp da còn nguyên trên đỉnh đầu gã. Verbum significatium…, gã lầm rầm.

Verbum omnificum. Rốt cuộc, gã đã tìm ra thành tố cuối cùng.

Kho báu quý giá nhất thường lại đơn giản nhất.

Phía trên bàn thờ, những làn khói thơm cuộn xoáy, bốc cao khỏi lư hương. Khói tẩy uế bay lên qua cột ánh trăng, tẩy sạch con đường thăng thiên để một linh hồn được giải phóng có thể tự do di chuyển.

Thời khắc đã đến.

Mal’akh với lấy ống đựng máu đã ngả đen của Peter và mở nút.

Trước ánh mắt nạn nhân, gã nhúng chiếc lông quạ vào mực son và đưa lên vòng da thiêng liêng trên đỉnh đầu mình. Gã dừng lại một chút… nghĩ đến quãng thời gian đằng đẵng phải chờ đợi cho tới đêm nay. Cuối cùng quá trình biến cải vĩ đại của gã đã đến. Khi Từ Còn Thiếu được viết lên trí tuệ con người, tức thị người ấy đã sẵn sàng nhận lấy sức mạnh khôn lường. Đó là lời hứa hẹn xa xưa về sự phong thần. Cho đến nay, nhân loại vẫn không nhận ra lời hứa đó, riêng Mal’akh đã làm hết sức để biến nó thành hiện thực.

Bằng bàn tay vững vàng, Mal’akh chạm đầu sợi lông xuống da. Không cần dùng đến gương, không cần sự hỗ trợ, gã chỉ can cảm giác và tuệ nhãn của mình. Rất chậm rãi, rất tỉ mỉ, gã bắt đầu viết Từ Còn Thiếu vào bên trong vòng tròn trên đỉnh đầu.

Peter Solomon chứng kiến với vẻ khiếp đảm.

Vẽ xong, Mal’akh nhắm mắt lại, buông chiếc lông chim xuống và phả hết không khí trong phổi ra. Lần đầu tiên trong đời, gã cảm nhận một nỗi xốn xang chưa từng biết đến.

Ta đã hoàn tất.

Ta là nhất thể.

Mal’akh đã mất nhiều năm để biến cơ thể mình thành một tác phẩm, và giờ đây, tới gần thời khắc biến đổi cuối cùng, gã cảm nhận chi tiết từng nét vẽ tô lên da thịt. Ta là một kiệt tác thật sự hoàn hảo và tron vẹn.

- Tôi đã cho anh thứ anh đề nghị - Tiếng Peter vang lên - Hãy cử người đến giúp Katherine, và dừng tệp tin đó lại.

Mal’akh mở mắt, mỉm cười.

- Ông và tôi chưa hoàn tất hẳn đâu - Gã quay lại phía bàn thờ, nhặt con dao hiến sinh và rê ngón tay ngang qua lưỡi dao sáng loáng - Con dao cổ này được Chúa uỷ thác để dùng vào việc hiến sinh con người. Ông nhận ra nó rồi phải không?

Đôi mắt xám của Solomon lạnh như đá.

- Chỉ có duy nhất một con dao như thế, tôi đã nghe huyền thoại.

- Huyền thoại? Câu truyện ghi chép trong Kinh Thánh. Ông không tin con dao có thật sao?

Peter chỉ nhìn trừng trừng.

Mal’akh đã chi cả đống tiền để truy tìm và giành bằng được món đồ này. Người ta chế tác con dao cách đây ba nghìn năm, từ một khối thiên thạch kim loại rơi xuống trái đất và đặt cho nó cái tên Akedah. Các tín đồ thần bí sơ khai gọi nó là sắt trời. Nhiều người tin rằng đây chính là lưỡi dao mà Abraham sử dụng trong lễ hiến sinh cậu con trai Isaac trên đỉnh núi Moriah, như mô tả trong chương Adekah thuộc Sáng Thế ký. Con dao này có một lịch sử phi thường, nó từng qua tay nhiều Giáo hoàng, nhiều phù thuỷ Đức Quốc xã, các nhà giả kim châu Âu, và các nhà sưu tập cá nhân.

Họ bảo vệ và ngưỡng mộ nó, Mal’akh nghĩ, những không ai dám giải phóng sức mạnh chân chính của con dao bằng cách sử dụng nó vào mục đích thực sự. Đêm nay, lưỡi dao Akedah sẽ hoàn tất số phận của nó.

Theo nghi lễ Hội Tam điểm, lễ hiến sinh Akedah luôn rất thiêng liêng. Ngay ở cấp độ đầu tiên, các huynh đệ trong Hội đã xưng tụng đây là món quà thiêng liêng nhất dâng cho Chúa… việc Abraham hiến dâng theo ý Đấng Chí tôn bằng cách hy sính con trai đầu lòng Isaac…"

Con dao đằm xuống một cách phấn khích trong lòng bàn tay Mal’akh khi gã cúi xuống dùng lưỡi thép sắc ngọt cắt đứt đám dây nhợ trói Peter vào chiếc xe lăn của ông. Dây buộc tuột xuống sàn.

Peter Solomon gắng nhấc đôi chân tê bại lên và nhăn mặt vì đau.

- Tại sao anh đối xử với tôi thế này? Điều gì khiến anh nghĩ rằng hành động hôm nay sẽ giúp anh đạt được mục đích?

- Tất cả các người cần phải hiểu, - Mal’akh đáp - Các người nghiên cứu những phương pháp cổ xưa. Các người biết rằng sức mạnh của mọi điều huyền bí nằm ở sự hiến sinh… ở việc giải phóng linh hồn con người khỏi cơ thể. Ngay từ buổi ban đầu con đường đã là như vậy rồi.

- Anh chẳng hiểu gì về hiến sinh cả - Peter bình phẩm, giọng đầy đau đớn và căm hờn.

Tốt lắm, Mal’akh nghĩ. Cứ việc nổi điên đi. Sẽ chỉ càng làm cho mọi việc dễ dàng hơn.

Gã rảo bước tới trước mặt nạn nhân của mình, cái dạ dày trống rỗng quặn lên.

Sự đổ máu sẽ tạo ra một nguồn sức mạnh khổng lồ. Tất cả mọi người đều hiểu điều đó, từ dân Ai Cập cổ đại, các tu sĩ Celtic tới người Trung Hoa, người Aztec. Việc hiến sinh con người sẽ tạo ra phép màu, nhưng con người hiện đại lại quá yếu đuối, sợ sệt đến nỗi không dám chuẩn bị những lễ vật đích thực, hèn nhát đến nôi không dám dân hiến mạng sống vốn rất cần cho quá trình cải biến tinh thần. Mặc dù các văn bản cổ xưa đều nói rất rõ, phải dâng hiến những thứ thiêng liêng nhất thì con người mới tiếp cận được sức mạnh tối thượng.

- Anh coi tôi là một lễ vật linh thiêng à?

Mal’akh cười phá lên.

- Ông thật sự chưa hiểu, phải không?

Peter ngơ ngác nhìn gã.

- Ông có biết tại sao tôi lắp cái bể tiết chế cảm xúc ở nhà không? - Mal’akh chống tay lên hông và uốn cong cơ thể trang trí cầu kỳ được che đậy bởi mỗi một manh khố của gã - Tôi đã thực hiện… chuẩn bị… tiên đoán thời khắc tôi trở thành bộ óc duy nhất… thoát khỏi cái vỏ đoản mệnh… và hiến dâng tấm thân tuyệt mỹ này cho các vị thần. Tôi mới là lễ vật quý giá! Tôi mới là con cừu trắng thanh sạch.

Peter há hốc miệng, nhưng không thốt nên lời.

- Phải, Peter, một con người phải dâng cho thần linh thứ anh ta trân trọng nhất, con bồ câu trắng tinh khiết nhất… món lễ vật đáng giá và quý báu nhất của anh ta. Với tôi. Ông không báu bở gì. Ông không phải là vật tế đáng giá – Mal’akh trừng trừng nhìn Peter - ông không hiểu, ông không phải là vật hiến sinh, Peter ạ… Tôi cơ. Da thịt tôi mới là lễ vật. Tôi mới là món quà. Hãy nhìn tôi xem. Tôi đã chuẩn bị, đã làm cho mình xứng đáng với hành trình cuối cùng của tôi Tôi mới là lễ vật!

Peter vẫn không nói lên lời.

- Bí mật là chết như thế nào? - Mal’akh nói tiếp - Hội Tam điểm hiểu điều đó - Gã trỏ bàn thờ - Các người sùng kính chân lý cổ xưa, nhưng các người những kẻ hèn nhát. Các người hiểu sức mạnh của hiến sinh nhưng các người giữ một khoảng cách an toàn trước cái chết, thực hiện lễ giết người giả tạo và những nghi thức chết chóc không hề có giọt máu nào. Đêm nay, bàn thờ tượng trưng của các người sẽ chứng kiến sức mạnh chân chính… và mục đích thực sự của nó.

Mal’akh cúi xuống, túm lấy tay trái của Peter Solomon và ấn cán dao Akedah vào bàn tay ông. Bàn tay trái phụng sự bóng tối. Chi tiết này cũng đã được lên kế hoạch. Peter không còn quyền lựa chọn. Mal’akh nhận thấy không một lễ hiến sinh nào hùng mạnh và mang nhiều tính biểu tượng hơn lễ hiến sinh thực hiện trên chiếc bàn thờ này, bởi con người này, với lưỡi dao này, cắm ngập vào trái tim của một lễ vật mà xương thịt phàm tục được bọc kín trong lớp vải liệm của những biểu tượng bí ẩn.

Bằng cách dâng hiến bản thân, Mal’akh sẽ xác lập địa vị của mình trong hàng ngũ ma quỷ. Bóng tối và máu chính là nơi chứa sức mạnh đích thực. Người cổ đại hiểu rõ điều này, các pháp sư đều căn cứ theo bản chất riêng để chọn chỗ đứng cho mình. Mal’akh đã khôn ngoan chọn đứng về phía Bóng tối. Hỗn loạn là quy luật tự nhiên của vũ trụ. Thái độ dửng dưng chính là động cơ của entropy. Sự hờ hững của con người là mảnh đất màu mỡ để các linh hồn đen tối gieo hạt giống của chúng.

Ta đã phục vụ họ, và họ sẽ đón nhận ta như một vị thần.

Peter không nhúc nhích. Ông chỉ trừng trừng nhìn xuống con dao cổ nắm chặt trong tay mình.

- Tôi muốn ông, - Mal’akh giễu cợt - Tôi là một vật hy sinh đã sẵn sàng. Vai trò cuối cùng của ông đã được xác định. Ông sẽ biến đổi tôi, giải thoát tôi khỏi thân xác phàm tục. Ông phải làm việc đó, bằng không sẽ mất em gái cũng như hội huynh đệ, và thực sự chỉ còn trơ trọi một mình - Gã ngừng lời, mỉm cười với nạn nhân của gã - Hãy nghĩ đến hình phạt cuối cùng này của ông.

Peter chậm rãi ngước mắt lên, nhìn thẳng vào mắt Mal’akh.

- Giết mày ư? Một hình phạt ư? Mày tưởng tao sẽ do dự chắc? Mày đã giết con trai tao. Mẹ tao. Toàn bộ gia đình tao.

- Không! - Mal’akh nổ bùng với một sức mạnh khiến bản thân gã cũng phải giật mình - Ông sai rồi! Tôi không giết gia đình ông. Chính ông! Chính ông đã quyết định bỏ mặc Zachary trong tù. Từ đó, bánh xe bắt đầu chuyển động. Ông đã giết gia đình mình, Peter ạ, không phải tôi!

Các đốt xương của Peter trắng bệch, các ngón tay ông xiết chặt con dao đầy giận dữ.

- Mày không hiểu lý do tại sao tao để Zachary trong tù.

- Tôi biết tất cả? - Mal’akh quát lại - Tôi đã ở đó. Ông tuyên bố sẽ cố gắng giúp nó. Ông cố gắng giúp khi bảo nó lựa chọn giữa tiền bạc và tri thức ư? Ông cố gắng giúp khi ra tối hậu thư cho nó về việc gia nhập Hội Tam điểm ư? Loại bố nào buộc đứa con lựa chọn giữa "tiền bạc và tri thức" và kỳ vọng nó biết cách xử lý chứ! Loại bố nào bỏ đứa con dứt ruột đẻ ra trong tù thay vì đưa nó về nhà an toàn chứ.

Mal’akh tiến lại trước mặt Peter và cúi xuống, gí khuôn mặt vằn vện hình xăm của gã vào sát mặt ông, chỉ còn cách vài phân.

- Nhưng điều quan trọng nhất… loại bố nào tận mắt trông thấy con trai mình… dù là bao nhiêu năm đi nữa… lại không nhận ra nó!

Lời Mal’akh vang vọng vài giây trong căn phòng đá.

Rồi im lặng.

Trong bầu không khí tịch mịch đột ngột, Peter Solomon dường như choàng tỉnh khỏi trạng thái thất thần. Nét mặt ông đầy rẫy ngờ vực.

Phải, thưa Ba. Chính là con đây. Mal’akh đã chờ đợi khoảnh khắc này suốt nhiều năm… để trả thù người ruồng bỏ gã… để trừng trừng nhìn vào đôi mắt xám và bật ra sự thật chôn giấu bấy nhiêu năm ròng. Giờ đây, thời điểm đã tới, và gã nói rất chậm rãi, háo hức chứng kiến linh hồn Peter Solomon bị đè nghiến dưới sức nặng lời nói của mình.

- Chắc là ba hạnh phúc lắm. Đứa con trai hoang đàng của ba đã trở về.

Mặt Peter xám ngoét như người chết.

Mal’akh tận hưởng từng khoảnh khắc.

- Cha ruột của tôi đã quyết định bỏ mặc tôi trong tù… Vào thời điểm đó, tôi đã thề rằng không bao giờ để ông ta ruồng rẫy tôi thêm lần nào nữa. Tôi không còn là con trai ông ta nữa. Sự tồn tại của Zachary Solomon sẽ chấm dứt.

Hai giọt nước mắt long lanh đột nhiên trào lên trong mắt người cha, Mal’akh nghĩ đó là thứ đẹp nhất mà gã từng được thấy.

Peter cố nén nước mắt, đăm đăm ngắm khuôn mặt Mal’akh như thể đang nhìn gã lần đầu tiên trong đời.

- Tất cả những gì lão cai ngục muốn là tiền - Mal’akh nói - nhưng ông từ chối. Chắc ông không bao giờ ngờ đến, rằng tiền của tôi cũng xanh như tiền của ông. Lão cai ngục chỉ cần kiếm chác, không quan tâm ai là người trả. Khi tôi đề nghị chi đẹp, lão liền chọn một thằng tù ốm có hình dáng như tôi, cho nó mặc quần áo của tôi, và đập chết nó mà không ai hay biết. Những bức ảnh ông xem… và cái bình tro xương niêm phong mà ông chôn cất… đều không phải là tôi. Chúng thuộc về một người hoàn toàn xa lạ.

Gương mặt còn vương ngấn lệ của Peter lúc này nhăn nhúm vì đau đớn và choáng váng.

- Ôi lạy Chúa… Zachary.

- Không còn nữa đâu. Khi Zachary bước ra khỏi nhà tù, nó đã được biến cải.

Cơ thể vị thành niên và gương mặt ngây thơ ngày nào đã thay đổi ghê gớm khi Zachary đắm chìm trong các loại hormone và steroid tăng trưởng thử nghiệm. Thậm chí dây thanh quản của gã cũng bị phá huỷ, biến giọng nói lanh lảnh thành một giọng thì thào vĩnh viễn.

Zachary trở thành Andros.

Andros trở thành Mal’akh.

Và tối nay… Mal’akh sẽ trở thành hiện thân vĩ đại nhất của mình.

° ° °

Trong lúc ấy, tại Kalorama Heights, Katherine Solomon đứng bên ngăn kéo tủ mở toang và trân trối nhìn xuống một đống chỉ có thể gọi là bộ sưu tập các bài báo và ảnh cũ của một tín đồ Bái vật giáo.

- Tôi không hiểu - cô nói, quay sang phía Bellamy - Gã điên này rõ ràng bị ám ảnh bởi gia đình tôi, nhưng…

- Cứ xem đi… - Bellamy giục, tìm một chỗ ngồi và trông vẫn cực kỳ chấn động.

Katherine lục kỹ hơn chồng báo, tất cả mọi thứ đều liên quan đến gia đình Solomon: những thành công của Peter, nghiên cứu của Katherine, cái chết khủng khiếp của Isabel, việc dùng ma tuý tai tiếng của Zachary Solomon, vụ tống giam, và vụ giết người tàn bạo trong một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ.

Niềm đam mê mà gã đàn ông này dành cho gia đình Solomon vượt xa cả sự cuồng tín, nhưng Katherine vẫn chẳng thấy manh mối nào gợi ra lý do vì sao.

Đúng lúc đó cô nhìn thấy những bức ảnh. Bức đầu tiên chụp Zachary đứng trong làn nước xanh ngập tới đầu gối ở một bãi biển lác đác vài ngôi nhà quét sơn trắng. Hy Lạp? Chắc hẳn bức ảnh này được chụp trong những ngày nghiện ngập của Zach ở châu Âu.

Nhưng lạ là cháu cô trông mạnh khỏe hơn so với hình ảnh một thằng choai choai hốc hác đang bù khú với cả đám bạn hút hít vẫn thường xuất hiện trên mớ ảnh của đám paparazzi. Bề ngoài nó vạm vỡ, rắn rỏi và chững chạc hơn. Trong ký ức của Katherine, chưa bao giờ trông Zachary lại khỏe khoắn thế này.

Bối rối, cô kiểm tra ngày tháng đóng dấu trên bức ảnh.

Không thể… thế được.

Ngày tháng là gần một năm sau khi Zachary chết trong tù.

Đột nhiên, Katherine lật giở thật nhanh qua cả chồng tài liệu. Mọi bức ảnh đều chụp Zachary Solomon… mỗi ngày một trưởng thành.

Bộ sưu tập tương tự một dạng tự truyện bằng hình, ghi lại quá trình biến đổi từ từ. Càng lật giở những bức ảnh, Katherine càng nhận ra sự thay đổi đột ngột và rõ rệt. Cô kinh hãi nhìn cơ thể Zachary biến cải, cơ bắp nảy nở, những đường nét trên mặt biến dạng do sử dụng quá nhiều steroid, khung xương dường như tăng gấp đôi, và một ánh hung tợn hiện rõ trong mắt nó.

Mình thậm chí không nhận ra người này? Trông nó chẳng còn nét gì giống với ký ức của Katherine về đứa cháu trai.

Khi xem đến bức ảnh chụp Zachary với cái đầu cạo trọc lốc, Katherine cảm thấy đầu gối mình nhũn ra. Rồi cô bắt gặp một bức ảnh chụp cơ thể để trần của nó… đang trang trí bằng những nét xăm trổ đầu tiên.

Tim cô như ngừng đập.

- Ôi lạy Chúa tôi…
 
Bên trên