http://tranquanghai.info/p1576-hat-cai-luong--ca-vong-co.html đã viết:
CA VỌNG CỔ
Vọng cổ là một bài ca xuất xứ tại miền Nam và rất được phổ biến trong đại chúng. Vọng cổ giọng buồn não nùng ,tha thiết, dễ cảm, dễ xót xa. Có lẽ chưa bài ca nào được đại chúng miền Nam ưa thích bằng những bài vọng cổ. Thường một bản ca vọng cổ có 6 câu, nhưng trên thực tế, một câu, hai câu, ba câu...đều có thể được cả.
Trước 6 câu có một khúc nói lối. Dưới đây là ví dụ:
Noí lối
Em gọi tên người bằng niềm vui vô vọng, rồi buông rơi hai tiếng ấy giữa không gian, nhặt đâu đây vài cánh hoa tàn, em xếp lại để tủi buồn cho số kiếp. Kìa mấy cánh hoa rụng xuống giữa cô liêu, nó đã tàn uá, không còn dám luyến lưu tình bướm trắng.
Bài ca
Chị em ơi ,khó cho một cuộc đời vô vọng của những đoá hoa rơi rụng dưới chân đồi. Nó đã tàn phai nhan sắc tự lâu rồi. Nó đã xa lìa sự sốngcủa những ngày ủ mộng đờ xuân sang. Cát bụi sẽ phủ lên mình nó để rồi mưa nắng thời gian không còn biết nó là hoa gì, được mấy tuổi ước mơ mà chôn vùi nguồn mơ ước.
Chị em ơi, em muốn nói đời hoa ấy là em, là Thu Lan đã hơn ba năm nay hầu hạ dưới chân người, nó từng thức thâu đêm để nghe gió lạnh thổi dài, nghe lá rụng, nghe tâm tình thổn thức và để buồn vui theo ánh mắt của người yêu, nhưng em không có quyền thổ lộ, vì em đã lỡ yêu.Hương tình của thuở ban đầu lạt phai, thì đâu thể nào em lại nói tiếng yêu ai.
Chị em ơi! Em là kẻ tàn tật ,linh hồn trong trắng mà mảnh hồng nhan không che kín được vết thương.Nếu em có yêu thì yêu người đồng chung cảnh ngộ, người trong sạch linh hồn trong trắngmà tàn phế xác thân, người ấy đang cùng lương tri tâm hồn điên loạn cũng như em. Người ấy, người có quyền điều khiển đám tàn quân, có quyền oán vua hận chúa và người ấy là người đã từng phen hạ lệnh cho em dâng cơm, hầu nước, đốt lửa, giăng màn (1)
Về văn chương, những câu hát vọng cổ thường đại để như câu trên, chỉ than van, chỉ thương nhớ, nhưng với điệu ca, vọng cổ đã có những ma lực mãnh liệt để quyến rũ giới bình dân miền Nam và cả giới trí thức nữa.
Trong các rạp hát, khi ca sĩ hạ đến đoạn mùi là tất cả khán giả vỗ tay, và trong lúc ca sĩ hát, nhiều khán giả đánh nhịp chân, gõ nhịp tay theo giọng ca.
Về nguồn gốc giọng ca vọng cổ, có nhiều người đưa ra nhiều luận điệu khác nhau.
Nguyễn Tử Quang trong thử tìm xuất xứ bài vọng cổ, đăng trong bách khoa số 63, xuất bản ngày 15-8-1969, đã viết:
" Vào khoảng năm 1920, tại chùa Làng Hoà Bình ,tỉnh Bạc Liêu có một nhà sư, tên họ thật là gì,người làng không biết được mà chỉ biết pháp danh là Nguyệt Chiếu. Vì ở xa lại nên người ta không rõ được tông tích nhà sư.
Nhưng thấynhà nho sư học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh mình vào cửa Phật.
Tuy đã đi tu, nhưng vẫn mang nặng tình non nước, lòng còn hoài bão chí khí lớn lao với một cuộc đổi thay, nên nhà sư mới đem tâm sự mình ký gở trên bài từ, đề là Dạ cổ hoài lang, nghĩa là Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng .Đại ý của nó cũng tựa như tác phẩm Chinh phụ ngâm của bà Đoàn Thị Điểm.
Bài thơ này lại được vào tay ông Sáu Lầu, một nhạc sĩ có danh tiếng lúc bấy giờ. Lời thơ tuy tầm thường nhưng có lẽ lúc bấy giờ, giữa đôi bên thông cảm được mối tình thương nhà nhớ nước nên ông Sáu Lầu mới lấy bài thơ ấy phổ ra nhạc.
Đó là bài Dạ cổ hoài lang nhịp đơn, âm điệu mường tượng hai bài Hành vân và Xuân nữ. Bài ấy lời lẽ như thế này:
Từ phu tướng,
Báu kiếm sắc phong lên đàng,
Vào ra luống trông tin chàng.
Thêm đau gan vàng,
Trông tin chàng,
Gan vàng thêm đau!
Chàng dầu say ong bướm,
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.
Đêm ngóng trông tin bạn,
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu.
Vọng phu, vọng luống trông tin chàng.
Năm canh mơ màng,
Chàng hỡi, chàng có hay.
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.
Bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắc cầm tình thương.
Nguyện cho chàng
Đặng chữ bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.
Lúc đầu vọng cổ chỉ có thế, chỉ là bài Dạ cổ hoài lang. Bài này được đưa lên sân khấu bởi gánh hát thầy Năm Tú ở Mỹ Tho đầu tiên , rồi lần lượt các gánh khác cùng sử dụng, nhất là trong các tuồng cải lương.
Rồi bài hát chịu sự biến đổi, từ Dạ cổ hoài lang, đổi sang thành Vọng cổ hoài lang, để về sau tên gọi được đơn giản hoá hơn với hai tiếng Vọng cổ
Những bài Vọng cổ được soạn ra, dài hơn,lâm ly hơn ,bi sầu não ruột hơn!
Điệu Vọng cổ buồn, phải chăng nó báo trước cái buồn của dân tộc Việt Nam ngày nay! Anh em đánh giết nhau, rồi bom rơi đạn nổ, bàn tay ngoại tộc đã dính vào, Bắc cũng như Nam, máu người Việt càng đổ nhiều vì khí giới dị bang! Những người có trách nhiệm vì quyền lợi riêng tư của mình không nhìn thấy tiền đồ của dân tộc.Người ngoại quốc, chúng có thương chi mình là người khác giống! Thử hỏi trong chúng ta ngày nay, mấy gia đình là không tang tóc?
Bản vọng cổ vẫn được hoan nghênh, cái điệu ca vong quốc này còn được nhiều người thích thú, có lẽ đất nước chúng ta còn chịu nhiều đau đớn, và nỗi u buồn của dân tộc còn dài dằng dặc không biết đến bao giờ!