thatoneday
New Member
Mặc dù điện ảnh nước ta còn non trẻ, nhưng không ít bộ phim Việt khi được trình chiếu tại nước ngoài đã tạo nên những thành công lớn "khi mang chuông đi đánh xứ người".
Cánh đồng hoang (1979)
Là bộ phim nhựa của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, được xem là tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam. “Cánh đồng hoang” giúp khán giả thế giới nhìn thấy điện ảnh Việt Nam có rất nhiều nhân tài trong môn nghệ thuật thứ 7 như: Hồng Sến, Lâm Tới, Thúy An, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Quang Sáng... Giới làm nghề cũng như công chúng hâm mộ điện ảnh đều bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với kiệt tác này. Bộ phim đoạt giải đặc biệt của Liên Đoàn báo chí Điện ảnh Quốc tế 1980 và giải Bông sen vàng của LHP Việt Nam 1980.
Xuyên suốt bộ phim là sự giằng co chiến đấu về cả sắc thái tinh thần giữa hai bên, một bên là gia đình đầm ấm của Ba Đô, với cảnh vợ chồng âu yếm nhau và đứa con luôn được cho bú với một bên là cảnh gầm rú và bắn phá khốc liệt của máy bay được trang bị đầy súng đạn. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của nhân dân đất nước Việt Nam nghèo, nhỏ chống lại một thế lực lớn và giàu là đế quốc Mỹ. Với hai hình ảnh này, tác giả truyện phim đã chứng minh sinh động một nghịch lý vẫn được xem như là một bản sắc độc đáo và nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đó là nghịch lý của nhỏ thắng lớn, nghèo thắng giàu, yếu thắng mạnh. Ngoài ra, phim còn gây ấn tượng mạnh vì ngôn ngữ điện ảnh rất cô đọng.
Bộ phim được xem như một trong những tác phẩm bất hủ của điện ảnh Việt Nam
Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972)
Ra đời từ năm 1972 nhưng đến nay bộ phim này vẫn còn được nhắc đến như một dấu mốc đáng nhớ của lịch sử điện ảnh nước nhà nói chung và của đạo diễn Hải Ninh nói riêng. Nữ diễn viên huyền thoại của Mỹ Jane Fonda từng rất xúc động khi xem “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”. Bộ phim này rất nổi tiếng tại Liên Xô cũ và từng giành giải thưởng tại Liên hoan phim Moscow. Phim cũng được trình chiếu nhiều lần tại nước Nhật và một số quốc gia Ả Rập.
Tác phẩm có sức sống lâu bền bởi phản ánh chân thực cuộc đấu tranh anh hùng của dân tộc ta, mà tiêu biểu trong phim là hình ảnh chị Dịu kiên cường bất khuất, đã hy sinh mọi hạnh phúc cá nhân để góp hết sức mình cho cuộc giải phóng dân tộc.
NSND Trà Giang – nữ diển viên nổi tiếng nhất thuộc thế hệ đầu tiên của nền điện ảnh Việt Nam, làm khuynh đảo màn ảnh Việt một thời – trong” Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”
Bao giờ cho đến tháng Mười (1984)
“Bao giờ cho đến tháng Mười” được trình chiếu nhiều nơi trên thế giới, được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng điện ảnh danh giá. Năm 2008, kênh CNN của Mỹ bầu chọn tác phẩm này vào danh sách 18 bộ phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại.
Cốt truyện dung dị, ngôn ngữ điện ảnh tiêu biểu và giàu tính nhân văn, “Bao giờ cho đến tháng Mười” là bộ phim Việt Nam được nhiều nước trên thế giới biết đến. Phim nêu bật hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam với tính chịu thương chịu khó, hy sinh thầm lặng vì chồng vì con. Diễn xuất tinh tế và tự nhiên của NSƯT Lê Vân đã biến nhân vật Duyên trở thành nữ nhân vật đắt giá trên màn ảnh nước nhà. Đây cũng là vai diễn tốt nhất trong sự nghiệp của nữ diễn viên này.
NSƯT Lê Vân vào vai Duyên trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười"
Xích lô (1995)
“Xích lô” (tên tiếng Pháp: Cyclo) là bom tấn hoàn hảo của đạo diễn Trần Anh Hùng – đạo diễn người Pháp gốc Việt xuất sắc đã chuyển thể tác phẩm Rừng Na Uy của Haruki Murakami. Phim đã đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice vào năm 1995, giải phim xuất sắc nhất tại LHP Flanders lần thứ 22, và giải thưởng George Delerue 1995 về nhạc phim hay nhất dành cho nhà soạn nhạc Tôn Thất Tiết. “Xích lô” là phim Việt đầu tiên đoạt giải Sư tử vàng.
Nhân vật chính của phim là Xích Lô (DV Lê Văn Lộc). Xích Lô vốn là một thanh niên chất phác, mồ côi cha mẹ, anh làm nghề lái xích lô kiếm sống tại Sài Gòn. Vì chiếc xích lô mà Xích Lô mượn của bà Buồn (DV Như Quỳnh) bị cướp, anh bế tắc vì nợ nần và gia nhập bẳng đảng của bà Buồn phạm nhiều tội ác ghê gớm: giết người, cướp của, phá hoại công lương… Cuộc đời Xích Lô trải qua nhiều biến cố với sự xuất hiện của nhiều tuyến nhân vật. Theo dõi Xích lô, cảm giác mà hầu hết khán giả nhận được là sự sợ hãi, cắn rứt và nhức nhối, cảm thông và đau xót cho những số phận, những mảnh đời éo le.
Với những triết lý và suy ngẫm về cuộc đời, vị đạo diễn tài năng này đã chuyển tải đến khán giả những thông điệp giàu ý nghĩa và tràn đầy xúc cảm.
Người Mỹ trầm lặng (2002)
“Người Mỹ trầm lặng” – The quiet American do đạo diễn nổi tiếng Phillip Noyce chịu trách nhiệm dàn dựng từ tiểu thuyết cùng tên. Phim có sự tham gia của diễn viên Đỗ Hải Yến, Việt Nam và nam diễn viên Michael Caine. Bộ phim được trang web imdb chấm 7,2/10 và từng được đề cử Oscar cho nam diễn viên Michael Caine.
Lấy bối cảnh chiến tranh Việt Nam trong những năm 50, phim kể về mối tình tay ba đầy phức tạp giữa một phóng viên người Anh, một bác sỹ trẻ người Mỹ cùng yêu cô gái Việt dẫn đến câu chuyện về sự mất mát của tình yêu, sự phản bội và những âm mưu chiến tranh.
Hải Yến (phải) trong một cảnh quay Người Mỹ trầm lặng
Mùa len trâu (2004)
"Mùa len trâu" là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003. Chuyện phim dựa trên tác phẩm “Mùa len trâu” trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ.
Nhân vật chính trong phim là Kìm. Quãng đường đi len trâu giúp Kìm va vấp được nhiều nhưng lại khiến cậu tự rời xa gia đình mình.
“Mùa Len Trâu” được ca ngợi là bộ phim điện ảnh thực sự chứ không đơn thuần là bộ phim chuyển thể và đã giành khá nhiều giải thưởng quốc tế, như: Giải đặc biệt ở LHP Locarno, Thụy Sĩ, Giải đạo diễn xuất sắc nhất ở LHP Chicago, Mỹ, Giải cao nhất, Grand Prix của LHP Amiens, Pháp và Giải đặc biệt của LHP Amazonas, Brazil.
Áo lụa Hà Đông (2006)
"Áo lụa Hà Đông" từng “đánh bại” một bộ phim Hàn Quốc ngay trên chính đất nước họ tại Liên hoan phim Busan (2006)- một liên hoan phim uy tín của Hàn Quốc - để đoạt giải Phim được khán giả yêu thích nhất. Tại thị trường trong nước, bộ phim đã đạt doanh thu hơn1 tỷ đồng sau 10 ngày công chiếu. Tuy là một bộ phim buồn, có phần nặng nề kể về một thời đau đớn và loạn lạc đã qua, thế nhưng “Áo lụa Hà Đông” đã chinh phục được đông đảo khán giả trẻ và được đánh giá là bộ phim Việt “rất đáng xem” ở thời điểm ấy.
Bộ phim kể về một đôi vợ chồng trẻ tìm kiếm mưu sinh cho gia đình nhỏ bé của mình trong thời buổi loạn lạc. Đi theo hành trình của họ chính là chiếc áo lụa Hà Đông đã mang đến những cảm xúc mãnh liệt cho người xem. “Áo lụa Hà Đông” đã khẳng định được sức sống của mình khi mang lại một cảm xúc chân thật nơi người xem. Không chỉ là những giọt nước mắt rơi, không chỉ là nỗi đau thắt lòng trước những tai ương mà con người phải gánh chịu, đó còn là sự xúc động sâu xa về nghĩa vợ chồng, tình mẹ con trong cơn khốn khó .
Bi, đừng sợ (2010)
Không dễ dãi như các bom tấn Hollywood thông thường, bộ phim "Bi, Đừng Sợ" hướng tới một bộ phận nhỏ người xem phim nghệ thuật thông qua sự tinh tế đậm chất cine của nó. Bộ phim dài đầu tay của đạo diễn Phan Đăng Di đã đạt đươc rất nhiều giải thưởng lớn trong năm qua tại các LHP quốc tế, như: 2 giải ở hạng mục Tuần lễ phê bình phim quốc tế tại LHP Cannes vào tháng 5.2010, giải Phim hay nhất tại hạng mục “Tài năng mới” dành cho các đạo diễn phim đầu tay hoặc phim thứ hai tại LHP châu Á Hồng Kông vào tháng 11.2010; 2 giải tại LHP Stockholm (Thụy Điển).
Là dạng phim độc lập mang nhiều tính thể nghiệm, Bi, đừng sợ! kể câu chuyện về một gia đình ở Hà Nội, nơi có chú bé 6 tuổi tên Bi (DV Phan Thành Minh) sống cùng bố (DV Hà Phong) mẹ (DV Kiều Trinh), người cô ruột chưa chồng (DV Hoa Thúy) và bà giúp việc lâu năm (NSƯT Mai Châu). Xáo trộn đáng kể của gia đình cũng là cái cớ vào phim xảy ra khi ông nội Bi (NSND Trần Tiến), một người già đau ốm ở phương xa bỗng nhiên trở về. Đó là hai thế giới hiển hiện với những người đàn ông loay hoay với những cơn say, sự đau đớn của bạo bệnh và những người phụ nữ gắng giải phóng cho mình khỏi những ám ảnh từ dục vọng cá nhân…
Thu Thảo
Cánh đồng hoang (1979)
Là bộ phim nhựa của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, được xem là tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam. “Cánh đồng hoang” giúp khán giả thế giới nhìn thấy điện ảnh Việt Nam có rất nhiều nhân tài trong môn nghệ thuật thứ 7 như: Hồng Sến, Lâm Tới, Thúy An, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Quang Sáng... Giới làm nghề cũng như công chúng hâm mộ điện ảnh đều bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với kiệt tác này. Bộ phim đoạt giải đặc biệt của Liên Đoàn báo chí Điện ảnh Quốc tế 1980 và giải Bông sen vàng của LHP Việt Nam 1980.
.jpg)
Xuyên suốt bộ phim là sự giằng co chiến đấu về cả sắc thái tinh thần giữa hai bên, một bên là gia đình đầm ấm của Ba Đô, với cảnh vợ chồng âu yếm nhau và đứa con luôn được cho bú với một bên là cảnh gầm rú và bắn phá khốc liệt của máy bay được trang bị đầy súng đạn. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của nhân dân đất nước Việt Nam nghèo, nhỏ chống lại một thế lực lớn và giàu là đế quốc Mỹ. Với hai hình ảnh này, tác giả truyện phim đã chứng minh sinh động một nghịch lý vẫn được xem như là một bản sắc độc đáo và nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đó là nghịch lý của nhỏ thắng lớn, nghèo thắng giàu, yếu thắng mạnh. Ngoài ra, phim còn gây ấn tượng mạnh vì ngôn ngữ điện ảnh rất cô đọng.
.jpg)
Bộ phim được xem như một trong những tác phẩm bất hủ của điện ảnh Việt Nam
Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972)
Ra đời từ năm 1972 nhưng đến nay bộ phim này vẫn còn được nhắc đến như một dấu mốc đáng nhớ của lịch sử điện ảnh nước nhà nói chung và của đạo diễn Hải Ninh nói riêng. Nữ diễn viên huyền thoại của Mỹ Jane Fonda từng rất xúc động khi xem “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”. Bộ phim này rất nổi tiếng tại Liên Xô cũ và từng giành giải thưởng tại Liên hoan phim Moscow. Phim cũng được trình chiếu nhiều lần tại nước Nhật và một số quốc gia Ả Rập.
Tác phẩm có sức sống lâu bền bởi phản ánh chân thực cuộc đấu tranh anh hùng của dân tộc ta, mà tiêu biểu trong phim là hình ảnh chị Dịu kiên cường bất khuất, đã hy sinh mọi hạnh phúc cá nhân để góp hết sức mình cho cuộc giải phóng dân tộc.
.jpg)
NSND Trà Giang – nữ diển viên nổi tiếng nhất thuộc thế hệ đầu tiên của nền điện ảnh Việt Nam, làm khuynh đảo màn ảnh Việt một thời – trong” Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”
“Bao giờ cho đến tháng Mười” được trình chiếu nhiều nơi trên thế giới, được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng điện ảnh danh giá. Năm 2008, kênh CNN của Mỹ bầu chọn tác phẩm này vào danh sách 18 bộ phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại.
.jpg)
Cốt truyện dung dị, ngôn ngữ điện ảnh tiêu biểu và giàu tính nhân văn, “Bao giờ cho đến tháng Mười” là bộ phim Việt Nam được nhiều nước trên thế giới biết đến. Phim nêu bật hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam với tính chịu thương chịu khó, hy sinh thầm lặng vì chồng vì con. Diễn xuất tinh tế và tự nhiên của NSƯT Lê Vân đã biến nhân vật Duyên trở thành nữ nhân vật đắt giá trên màn ảnh nước nhà. Đây cũng là vai diễn tốt nhất trong sự nghiệp của nữ diễn viên này.
.jpg)
NSƯT Lê Vân vào vai Duyên trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười"
Xích lô (1995)
“Xích lô” (tên tiếng Pháp: Cyclo) là bom tấn hoàn hảo của đạo diễn Trần Anh Hùng – đạo diễn người Pháp gốc Việt xuất sắc đã chuyển thể tác phẩm Rừng Na Uy của Haruki Murakami. Phim đã đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice vào năm 1995, giải phim xuất sắc nhất tại LHP Flanders lần thứ 22, và giải thưởng George Delerue 1995 về nhạc phim hay nhất dành cho nhà soạn nhạc Tôn Thất Tiết. “Xích lô” là phim Việt đầu tiên đoạt giải Sư tử vàng.
Nhân vật chính của phim là Xích Lô (DV Lê Văn Lộc). Xích Lô vốn là một thanh niên chất phác, mồ côi cha mẹ, anh làm nghề lái xích lô kiếm sống tại Sài Gòn. Vì chiếc xích lô mà Xích Lô mượn của bà Buồn (DV Như Quỳnh) bị cướp, anh bế tắc vì nợ nần và gia nhập bẳng đảng của bà Buồn phạm nhiều tội ác ghê gớm: giết người, cướp của, phá hoại công lương… Cuộc đời Xích Lô trải qua nhiều biến cố với sự xuất hiện của nhiều tuyến nhân vật. Theo dõi Xích lô, cảm giác mà hầu hết khán giả nhận được là sự sợ hãi, cắn rứt và nhức nhối, cảm thông và đau xót cho những số phận, những mảnh đời éo le.
Với những triết lý và suy ngẫm về cuộc đời, vị đạo diễn tài năng này đã chuyển tải đến khán giả những thông điệp giàu ý nghĩa và tràn đầy xúc cảm.
.jpg)
Người Mỹ trầm lặng (2002)
“Người Mỹ trầm lặng” – The quiet American do đạo diễn nổi tiếng Phillip Noyce chịu trách nhiệm dàn dựng từ tiểu thuyết cùng tên. Phim có sự tham gia của diễn viên Đỗ Hải Yến, Việt Nam và nam diễn viên Michael Caine. Bộ phim được trang web imdb chấm 7,2/10 và từng được đề cử Oscar cho nam diễn viên Michael Caine.
.jpg)
Lấy bối cảnh chiến tranh Việt Nam trong những năm 50, phim kể về mối tình tay ba đầy phức tạp giữa một phóng viên người Anh, một bác sỹ trẻ người Mỹ cùng yêu cô gái Việt dẫn đến câu chuyện về sự mất mát của tình yêu, sự phản bội và những âm mưu chiến tranh.
.jpg)
Hải Yến (phải) trong một cảnh quay Người Mỹ trầm lặng
Mùa len trâu (2004)
"Mùa len trâu" là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003. Chuyện phim dựa trên tác phẩm “Mùa len trâu” trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ.
Nhân vật chính trong phim là Kìm. Quãng đường đi len trâu giúp Kìm va vấp được nhiều nhưng lại khiến cậu tự rời xa gia đình mình.
.jpg)
“Mùa Len Trâu” được ca ngợi là bộ phim điện ảnh thực sự chứ không đơn thuần là bộ phim chuyển thể và đã giành khá nhiều giải thưởng quốc tế, như: Giải đặc biệt ở LHP Locarno, Thụy Sĩ, Giải đạo diễn xuất sắc nhất ở LHP Chicago, Mỹ, Giải cao nhất, Grand Prix của LHP Amiens, Pháp và Giải đặc biệt của LHP Amazonas, Brazil.
.jpg)
Áo lụa Hà Đông (2006)
"Áo lụa Hà Đông" từng “đánh bại” một bộ phim Hàn Quốc ngay trên chính đất nước họ tại Liên hoan phim Busan (2006)- một liên hoan phim uy tín của Hàn Quốc - để đoạt giải Phim được khán giả yêu thích nhất. Tại thị trường trong nước, bộ phim đã đạt doanh thu hơn1 tỷ đồng sau 10 ngày công chiếu. Tuy là một bộ phim buồn, có phần nặng nề kể về một thời đau đớn và loạn lạc đã qua, thế nhưng “Áo lụa Hà Đông” đã chinh phục được đông đảo khán giả trẻ và được đánh giá là bộ phim Việt “rất đáng xem” ở thời điểm ấy.
.jpg)
Bộ phim kể về một đôi vợ chồng trẻ tìm kiếm mưu sinh cho gia đình nhỏ bé của mình trong thời buổi loạn lạc. Đi theo hành trình của họ chính là chiếc áo lụa Hà Đông đã mang đến những cảm xúc mãnh liệt cho người xem. “Áo lụa Hà Đông” đã khẳng định được sức sống của mình khi mang lại một cảm xúc chân thật nơi người xem. Không chỉ là những giọt nước mắt rơi, không chỉ là nỗi đau thắt lòng trước những tai ương mà con người phải gánh chịu, đó còn là sự xúc động sâu xa về nghĩa vợ chồng, tình mẹ con trong cơn khốn khó .
Bi, đừng sợ (2010)
Không dễ dãi như các bom tấn Hollywood thông thường, bộ phim "Bi, Đừng Sợ" hướng tới một bộ phận nhỏ người xem phim nghệ thuật thông qua sự tinh tế đậm chất cine của nó. Bộ phim dài đầu tay của đạo diễn Phan Đăng Di đã đạt đươc rất nhiều giải thưởng lớn trong năm qua tại các LHP quốc tế, như: 2 giải ở hạng mục Tuần lễ phê bình phim quốc tế tại LHP Cannes vào tháng 5.2010, giải Phim hay nhất tại hạng mục “Tài năng mới” dành cho các đạo diễn phim đầu tay hoặc phim thứ hai tại LHP châu Á Hồng Kông vào tháng 11.2010; 2 giải tại LHP Stockholm (Thụy Điển).
.jpg)
Là dạng phim độc lập mang nhiều tính thể nghiệm, Bi, đừng sợ! kể câu chuyện về một gia đình ở Hà Nội, nơi có chú bé 6 tuổi tên Bi (DV Phan Thành Minh) sống cùng bố (DV Hà Phong) mẹ (DV Kiều Trinh), người cô ruột chưa chồng (DV Hoa Thúy) và bà giúp việc lâu năm (NSƯT Mai Châu). Xáo trộn đáng kể của gia đình cũng là cái cớ vào phim xảy ra khi ông nội Bi (NSND Trần Tiến), một người già đau ốm ở phương xa bỗng nhiên trở về. Đó là hai thế giới hiển hiện với những người đàn ông loay hoay với những cơn say, sự đau đớn của bạo bệnh và những người phụ nữ gắng giải phóng cho mình khỏi những ám ảnh từ dục vọng cá nhân…
Thu Thảo