Truyện ngắn (bốn phương-nhiều tác giả)

conghieu1978

Moderator
16 Mét Vuông
Tác giả: Vũ Đình Giang​
Chưa đến mùa mưa mà ông trời đã giở trò keo bẩn trong trách nhiệm rót nắng. Thế nên cả ngày cứ âm âm u u. Buổi sáng thức dậy, hai hàng cây trên phố lười rửa mặt, dật dựa gục đầu vào nhau, cố gắng che giấu những chiếc lá ủ rũ bám đầy bụi khói, thỉnh thoảng hé mắt thờ ơ nhìn xuống dòng người nhung nhúc chen lấn nhau chạy quáng quàng trên phố. Hệt như một bức tranh có bố cục chật chội lại bị dùng quá nhiều tông màu lạnh, để rồi gây nên một cảm giác trầm uất và khó thở cho người xem.
Thứ bảy cơ quan ít việc nên phải “sáng tác” ra một lý do để lẩn trốn, bèn bịt mũi khiến giọng nghèn nghẹt đúng kiểu người bị cảm cúm, gọi điện xin sếp cho nghỉ. Chẳng biết sếp có tin không nhưng vẫn “ừ” một cách miễn cưỡng, mà nếu không cho thì nhân viên cũng đã quyết “ngã bệnh” rồi, đành phải “ừ” thôi! Nằm trăn qua trở lại một chốc thì chán. Bật ti-vi kênh nào cũng thấy toàn những chương trình ca nhạc nếu không nghèo nàn tẻ nhạt thì cũng rặt một thứ lai căng! Đành cưỡi xe xuống phố, định bụng ra quán cà phê quen. Nhưng vừa ló mặt ra đường đã thấy đám đông nghẹt cứng, mặt mũi liền tối sầm. Thấy người bỗng dưng mệt ra, có vẻ như bị cảm cúm thật. Bèn lập tức hiểu ngay ra rằng sáng thứ bảy thế là đã bị phá hỏng rồi. Vì trời âm u và vì người nhung nhúc. Rốt cuộc là quay xe trở về. Mà về đâu? Còn về đâu nữa, ngoài căn phòng mười sáu mét vuông?
Tôi sống và làm việc trong những căn phòng mười sáu mét vuông. Những căn phòng mười sáu mét vuông luôn được tận dụng triệt để mọi khoảng không gian từ mặt bằng cho đến mặt đứng, nhằm đặt-để-treo-mắc-ốp... nhiều loại máy móc.
Tôi sống và làm việc trong những căn phòng mười sáu mét vuông. Những căn phòng mười sáu mét vuông luôn được tận dụng triệt để mọi khoảng không gian từ mặt bằng cho đến mặt đứng, nhằm đặt-để-treo-mắc-ốp... nhiều loại máy móc.
Có quá nhiều loại máy móc tồn tại trong những căn phòng mười sáu mét vuông! Nào là máy in trắng đen nhãn hiệu HP LaserJet 5M, nào là máy in màu Epson Stylus Color 900, nào là máy Scanjet 4C, nào máy Scanner Epson 1600 Pro., nào máy lạnh hiệu Philco ngựa rưỡi hay hai ngựa, rồi thì các máy vi tính thuộc hệ PC và Macintosh, cả những loại máy móc khác nhỏ bé hơn nhưng cũng “tinh vi” hơn như máy quay phim kỹ thuật số hiệu Kodak, máy ảnh cũng kỹ thuật số hiệu Nikon... và...
Đấy là văn phòng thiết kế, nơi tôi cật lực lao động tám tiếng không muốn và cả không dám mệt mỏi hay nói đúng ra là phải cố gắng che giấu sự mệt mỏi. Rồi khi trở về nhà, cũng với căn phòng mười sáu mét vuông, nơi tôi thường xuyên bật nút “Power” chiếc máy vi tính PC (lại máy vi tính?) với bộ vi xử lý Pentium III đang trở nên lạc hậu thê thảm, để thiết kế vài việc vặt có được từ những mối quan hệ hoặc ơ hờ hoặc thân thiết, rồi còng lưng gõ văn bản, trao đổi e-mail hay nghe nhạc MP3. Chiếc máy hát cũ mèm chỉ có giá trị kỷ vật hơn là giá trị sử dụng, vứt chỏng chơ nơi góc tường giăng đầy bụi và mạng nhện; chiếc tivi hiệu Samsung loại 17inches màn hình phẳng, tuy còn mới cáu nhưng một hôm nọ nổi máu “hâm”, tôi đã cho vài vệt sơn dầu màu vàng cam khiến nó đánh mất vẻ hài hòa sang trọng và trở nên cực kỳ lố bịch. Khi tôi hiểu ra thì đã quá muộn, đành quay ra o bế cái đầu máy DVD có linh kiện ngoại được lắp ráp tại nội địa, nhưng chỉ chuyên đọc những đĩa VCD Tàu kém chất lượng nên mắt đọc đã “mù” đi nhanh chóng, khiến sáu tháng một lần tôi phải vác đi cân chỉnh lại!
Còn gì nữa nhỉ, trong căn phòng mười sáu mét vuông? Còn rất nhiều! những thứ linh tinh được đặt-để-treo-mắc-ốp... vào mọi khoảng trống có thể, những vật dụng cần thiết tối thiểu cho một đời sống độc thân và cả những thứ chỉ có tác dụng trang trí, mà vì phút ngẫu hứng nào đó hoặc thậm chí là đua đòi, tôi đã tha về “khủng bố” thêm cho căn phòng một vẻ chật chội quá tải. Bằng cách đó, tôi khai thác triệt để tuổi trẻ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!
Những đêm mất ngủ, tôi nghĩ rằng rất có thể suốt quãng đời thanh niên, tôi sẽ phải lặn ngụp trong khói bụi phố phường và trú ẩn trong những căn phòng mười sáu mét vuông hiếm khi có cửa sổ. Sáng tôi ra đi và khuya tôi trở về. Những chiếc máy đủ thứ kiểu dáng, đủ thứ nhãn hiệu, đủ thứ công năng được bật lên, tỏa ra đủ tầng nấc nhiệt lượng, vang lên đủ thứ tiếng kêu sinh động và khắc khoải. Tôi khai thác chúng và chúng khai thác lại tôi. Chúng hút lấy tôi, bám lấy tôi, tiêu phí tiền bạc - sức khỏe - thời gian của tôi; và, tôi nuôi nấng nỗi cô đơn lẫn ích kỷ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông có quá nhiều máy móc!
“Mày giàu có quá!” – “Nghệ hâm” khẽ nói cái câu đã nói đi nói lại quá nhiều lần, khiến tôi thấy chúng vô hồn như thứ âm thanh digital được ghi sẵn vào đĩa rồi phát ra từ một trong những cái máy đang hiện diện trong phòng. Ba mươi phút trước đây “Nghệ hâm” đã rời bỏ căn phòng cũng mười sáu mét vuông của nó, chạy rong trên phố mà không hề dừng lại một nơi nào. Dù những quán cà phê bây giờ đã được “deco” công phu với nhiều kiểu dáng quyến rũ và sang trọng, những quán vườn thích hợp với “type” người ưa sự trầm tư cũng đã trầm tư hơn (nghĩa là các em phục vụ mặt cố ra vẻ man mác buồn, nhạc vặn nhỏ volume cho rỉ rả, còn các chậu cây cảnh thì lòa xòa không cắt tỉa thái quá hòng tạo cảm giác thật tự nhiên). Tôi hiểu bạn tôi, rất nhiều lần tôi cũng đã chạy trốn căn phòng của mình bằng cách chạy rong trên phố như thế, với hy vọng những tiếng động ầm ĩ của xe cộ, tiếng la hét, chửi bới của những người bán rong trên hè phố... sẽ khiến tôi có cảm giác như đang vào cuộc bận rộn. Xét cho cùng đó là một sự bận rộn “ảo”, một đối xử độc ác với chính bản thân mình. Tôi thảy tôi ra đường với mục đích chối bỏ một thứ, để rồi phải hứng chịu nhiều thứ khác. Bằng cách đó, tôi đang giết dần tuổi trẻ của mình bên ngoài những căn phòng mười sáu mét vuông!
“Nghệ hâm” lại hỏi: “Lâu rồi có gặp Min không?”. Tôi bảo rằng không thường lắm. Min là một trong những gương mặt bạn bè thân mà mỗi tháng chúng tôi chỉ còn có khả năng gặp nhau chỉ vài lần, còn phần lớn là liên lạc qua điện thoại. Bằng cách thông qua những thứ máy móc diệu kỳ, chúng tôi chia sẻ những câu chuyện đáng lý ra phải được nói trong một không gian khác. Tôi nhớ một đôi lần, Min đến, thái độ uể oải và dè dặt. Trông nó bắt đầu béo ra ở bụng vì ngồi quá lâu trước máy vi tính vào ban ngày và các quán bia vào ban đêm. Nó nhìn quanh căn phòng của tôi như so sánh rằng giữa tôi và nó ai sẽ giàu hơn, bằng cách đếm và ước lượng tổng số tiền tôi mua sắm những thứ máy móc hiện đại đó. “Tao không còn sống chật vật như trước, nhưng đã nếm thấy mùi nhàn nhạt của đời. Hình như tao đang chai sạn và lạnh lùng. Thấy mọi thứ đều vô nghĩa!”. “Bệnh của những người thành đạt sớm đấy mà” – tôi nhận xét, hơi mai mỉa và thoáng chút đố kỵ. “Mày nghĩ như thế thật à? Thành đạt? Hừ, cái câu “chưa mua được đất – chưa cất được nhà” là nỗi ám ảnh thường trực của tất cả những kẻ ngụ cư và nhập cư như tụi mình. Tao đã vượt qua được vế đầu, nhưng đã cảm thấy mệt mỏi vì hai từ thành đạt?”. “Mày mông lung quá! Có người cả đời không vượt qua được phân nửa câu nói ấy đâu. Mày phải biết hài lòng chứ?”, nói xong thì cảm thấy lòng quặn đau một chút và trái tim gần như bị tổn thương một chút. Có ai mà biết hài lòng về mình bao giờ? “Ừ, nhưng tao bỏ vẽ rồi”. “Vẽ vời! Máy tính có thể đẻ ra tiền nhưng không ai nặn sơn dầu ra mà ăn cả” – tôi chống đối yếu ớt. Câu chuyện vẫn miên man và rối rắm như thế, cho đến lúc chiều ập xuống. Thật ra, căn phòng tôi ở không có những buổi chiều, khái niệm chuyển biến về thời gian là không tồn tại. Vì nó tối tăm mờ mịt, tôi luôn phải bật tất cả các đèn nhưng không đem lại hiệu quả ánh sáng như mong muốn. Tôi luôn thèm khát một căn phòng có thật nhiều cửa sổ, một căn phòng tràn trề ánh sáng. Khi hiểu ra sự “thèm khát” trong tôi, Min đã kết luận: “Mày đòi hỏi quá!”.
“Mày đòi hỏi quá! Căn phòng của tao còn tối hơn!” – “Nghệ hâm” cũng kết luận, hệt như Min, khiến tôi hoang mang nghĩ rằng có lẽ mình đòi hỏi thật. Nó lại rít thuốc, ngồi dựa lưng vào tường, thở ra những vòng khói mang hình “còng số 8”. Đúng là bi kịch: khi nó công phu tập luyện cái trò ấy cho điệu nghệ thì khốn thay, chiếc còng số 8 ấy còng cuộc đời nó vĩnh viễn vào khói thuốc. Nhưng nó chẳng hối tiếc. “Ở đời ai cũng phải lệ thuộc vào một thứ gì đó. Như giống đực và giống cái phải lệ thuộc vào nhau. Tách riêng ra, đàn ông lệ thuộc quyền lực còn đàn bà lệ thuộc tình cảm. Chia nhỏ ra nữa, tao lệ thuộc vào ảo giác còn mày lệ thuộc vào những cái máy”. “Và tổng kết lại là tất cả chúng ta đều bị lệ thuộc vào những căn phòng, rằng không ai đủ can đảm phơi cuộc đời mình ra dưới ánh sáng mặt trời và những đám mây. Người ta gọi những kẻ không có chỗ chui ra chui vào là dân lang thang cùng quẫn, là dân màn trời chiếu đất. Đấy mày xem, rồi ai cũng phải dính chặt đời mình vào những căn phòng. Cả khi chết đi, chúng ta cũng bị lèn chặt lại bởi xác trà và hàng mớ vật dụng khác, rồi nhét vào một chiếc hòm chật chội tù túng. Không ai dám nằm chết thong thả dưới ánh mặt trời. Người ta sẽ gọi đó là một cái chết bất hạnh của những kẻ vô gia cư”.
Chúng tôi bỗng dưng im lặng sau câu nói ấy. Không gian chuyển động rậm rịch bên ngoài nhưng chẳng thể xua đi sự ngưng đọng trong căn phòng. Tia nắng, sợi gió rủ nhau đi hoang, nhòm ngó vào những căn phòng tăm tối bằng thái độ sợ hãi và tránh né. Cuối cùng, không chịu đựng nổi cảm giác tù túng, chúng tôi phải rời phòng đi ra quán.
Ở cái quán nhỏ cũ kỹ, không tên, nơi giọng Thái Thanh nhả tơ vướng vít trên những tán cọ vây bọc khắp lối đi, chúng tôi cùng nhau bàn luận về âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, văn học và muôn vàn những vấn đề phức tạp trong nghệ thuật. Nói say sưa, nói như bị bệnh dịch, nói về tất cả nhưng lại cố tránh né nói về tình trạng của chúng tôi, rằng làm cách gì để chúng ta thoát ra khỏi những căn phòng mười sáu mét vuông?
Rất khuya, tôi trở về nhà. Như một thói quen, tôi lại bật quạt cho chạy ro ro rồi khởi động máy tính để kiểm tra email, nhận mấy mẩu quảng cáo hấp dẫn truyền đi trên mạng, tìm kiếm và download vài ca khúc MP3 mà mình quan tâm. Sau đó tắt hết tất cả đèn và đi ngủ. Lúc ấy, vũ trụ chợt hiện ra. Bao giờ vũ trụ cũng sẽ hiện ra khi tôi tắt hết đèn. Đó là một bầu trời sao vĩ đại nằm trong diện tích trần mười sáu mét vuông. Khi tôi dọn về nơi ở mới, tất cả đã hiện diện như thế. Chủ nhân trước của căn phòng đã kỳ công đính những ngôi sao nhỏ li ti bằng một loại chất liệu hấp thụ nhiệt và phản quang trong đêm tối, khiến chúng trở nên lung linh huyền ảo như một bầu trời sao thật sự. Hàng đêm, để dỗ mình vào giấc ngủ, tôi luôn chong mắt ngước nhìn “bầu trời” để đếm sao mà chưa bao giờ biết chính xác có bao nhiêu ngôi sao tất cả. Bằng cách đó, tôi đã nuôi dưỡng ước mơ của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!
“Ở lại với anh đêm nay!”. Khi tôi nói ra câu này, mặc dù đã thay chữ “ngủ” bằng chữ “ở” cho có vẻ “trong sáng”, nhưng thật lòng tôi vẫn thèm dùng chữ “ngủ” hơn, em tát cho tôi một cái khiến tôi phút chốc thấy được cả bầu trời sao khi chưa kịp tắt đèn. Tình huống này hệt như một cảnh phim tôi và em từng xem. Nhưng khác trong phim, sau khi giáng một cái tát cực mạnh, thay vì bỏ đi, em đã ở lại. Và đúng như lời cầu khẩn của tôi, em đã “ở lại” mà không “ngủ” với tôi. Khi nhìn thấy bầu trời sao, em đã khóc rưng rức
Nhưng rồi một ngày kia em không đến nữa. Ước mơ của tôi cũng sụp đổ hoàn toàn. Tôi không thể dùng từ “phản bội” để quy tội cho em. Trong đời sống có muôn vàn những cuộc chia tay không đoán trước, có rất nhiều lý do để biện minh.
vì xúc động. Tôi nhanh trí dối em rằng tôi đã kỳ công làm ra “vũ trụ” ấy cốt để em vui. Và em vui thật, sau khi ngừng khóc, em cùng tôi vẽ ra một viễn cảnh về một tương lai rực rỡ. Rằng chừng vài ba năm nữa, bằng tất cả nỗ lực của hai đứa, “chúng mình” sẽ vượt qua được cả hai vế của câu nói ám ảnh với dân ngụ cư: “Chưa mua được đất, chưa cất được nhà”. “Chúng mình” sẽ nhân bản hình thức “vũ trụ” như thế này cho tất cả các căn phòng, bất kể nó có nhỏ hơn diện tích mười sáu mét vuông, bất kể nó là phòng ngủ, phòng ăn hay toilet. “Con chúng mình cũng sẽ được sinh ra dưới vòm trời đầy sao như thế này. Vì em sẽ không đi Từ Dũ, mà sẽ rước hẳn bác sĩ sản khoa về nhà...”. Em nói miên man, miên man..., cho đến khi chìm vào giấc ngủ, bỏ tôi bay lượn một mình với niềm hạnh phúc choáng ngợp. Vậy là, tôi đã tìm kiếm được tình yêu của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!
Nhưng rồi một ngày kia em không đến nữa. Ước mơ của tôi cũng sụp đổ hoàn toàn. Tôi không thể dùng từ “phản bội” để quy tội cho em. Trong đời sống có muôn vàn những cuộc chia tay không đoán trước, có rất nhiều lý do để biện minh. Dù rất đau buồn, tôi vẫn phải đi đi về về căn phòng nhỏ của mình, chia sẻ những tiếng động khắc khoải tỏa ra từ các loại máy móc, ngước mặt nhìn bầu trời sao trước khi đi ngủ và cố hy vọng đêm nào đó, em hoặc một người tương tự em sẽ quay lại. Tôi luôn tin là em sẽ quay lại. Tôi sẽ cố gắng để không đánh mất niềm hy vọng của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!
Min đã xây được nhà và chuẩn bị cưới vợ. Nó hay điện cho tôi, cười nhiều và hứa giúp đỡ tôi về mặt tài chính cho đợt triển lãm tranh sắp tới. Trong những buổi chiều thứ bảy, tôi vẫn đến quán nhỏ một mình, nơi tiếng hát sầu não của Thái Thanh lan dài trên những tán lá cọ loang nước vì cơn mưa trút xuống ban chiều. “Nghệ hâm” thỉnh thoảng ngủ lại phòng tôi, tranh luận đủ thứ về âm nhạc – điện ảnh – sân khấu - văn học... Sau cùng chúng tôi bàn về một kế hoạch cụ thể hơn là mở một văn phòng thiết kế, chúng tôi sẽ vay vốn của Min, dù sao nó cũng là bạn tốt. Hàng đêm, tôi vẫn không ngừng xây dựng tương lai của mình trong những căn phòng mười sáu mét vuông!
Ôi những căn phòng mười sáu mét vuông có quá nhiều máy móc!
 

conghieu1978

Moderator
17 Năm Và 17 Ngày

Tác giả: Ái Dung​

Dù cuộc đời có bao nhiêu biến động đi nữa, ánh mắt đầu tiên mà anh dành cho cô sau mười bảy năm vẫn không hề thay đổi. Tuy nhiên, cô lại không nghĩ thế.
Mười bảy năm trước, vào một chiều giông bão, có hai người bạn đồng hành nép dưới một cái lán tranh cô độc bên đường để tránh cơn thịnh nộ của đất trời.
Con đường trải dài trước mắt, bùn đất lầy lội. Hai bên đồng ruộng mênh mông, lấp xấp nước, không một bóng người. Cơn giông tháng 6 ập tới tựa một người đàn bà quyền uy và ngạo mạn.
Hai chiếc xe đạp quăng chỏng chơ ngoài đường cái. Cô gái với mớ tóc ướt, vừa rũ quần áo, vừa ríu rít cười nói.
Người đàn ông mặc bộ đồ ka-ki cũ chỉ lặng yên hút thuốc. Ánh mắt dịu dàng và trìu mến của anh không rời khuôn mặt cô.
“Đây là đâu anh?” “Đại Điền”. “Đi đường vòng xa quá, hơn cả chục cây số chớ ít gì, mình không lỡ chuyến đò ngang Phú Cốc là đã về Nha Trang từ tám kiếp". "À, có vậy em mới biết thêm những con đường và nhiều vùng đất mới".
"Thôi đi anh, nếu đi thám hiểm thì cũng không đi bằng hai chiếc xe đạp cọc cạch này đâu. Ô, anh có nhìn thấy vệt gì đỏ rực ở ngay trên sườn núi không? Hình như mái ngói mới thì phải!".
"Cô giáo cận thị à, hàng phượng đỏ đó".
"Em chưa thấy phượng mọc tự nhiên trên núi".
"Tức là em cũng chưa đến đó phải không?".
"Hừm, em chưa phải lên núi làm rẫy đốt than đâu".
Mưa ngừng đột ngột. Người đàn ông nhìn trời, nhìn đồng hồ, trầm ngâm: "Có thể được đấy, bây giờ em có đi đến đó cùng anh không?”.
"Đi đâu?".
"Không phải em vẫn ước được viếng am Chúa trên núi Đại An sao?".
"Em đi với!", cô gái reo lên sung sướng, rũ áo mưa loạt soạt, ào ra dựng xe đạp lên.
Cô chỉ móc cái xách tay vào ghi-đông là xong. Cô quay đầu lại chờ anh thận trọng cột cuốc, rựa, ga-men và thêm hai cái sọt đầy ắp chuối, mít, đu đủ, khoai mì.
Đường lên am Chúa khá quang đãng. Họ tìm được nơi gửi xe, vượt qua mấy chục bậc tam cấp bằng đá mới đến cổng.
Ngay trước khuôn viên, mấy gốc phượng già đang vươn tán, bung nở chói chang giữa ngàn xanh. Thấp thoáng trên cao, ngôi chánh điện khiêm tốn.
Cô thầm thì: "Ngại quá, em chưa đi lễ chùa bao giờ".
Cửa đền rộng mở, hai người đi vòng vòng chung quanh, đọc kỳ hết văn bia được dựng lên ở các miếu thờ phía ngoài.
"Em đã thấy những ruộng dưa trên đường mình lên núi. Lẽ ra người ta phải cắm biển giới thiệu rằng thời thiếu nữ của nữ thần Thiên-Y-A-Na đã từng chịu nắng mưa ở đất này. Đây cũng là nơi bà giáng trần. Dòng sông đã đưa khúc trầm hóa thân của bà ra biển lớn phải không anh?”.
"Ừ, rồi từ biển lớn, bà tìm về dòng sông quê mình. Bao đời nay, Tháp Bà Ponagar bên sông Cái vẫn nhìn ra cửa biển, trấn giữ thái bình...".
Họ xin được vào lễ Bà. Ông trị sự trang nghiêm: “Cô chú mỗi người thắp tám cây nhang, tới tám bàn". Cô lúng túng đi theo anh.
Anh đứng bên cô, chắp tay trước ngực thành khẩn. "Mình cũng phải cầu xin điều gì chứ” - cô thầm nghĩ.
Một phút trôi qua, cô cũng làm y hệt anh. Cô không biết rằng, đây là lần đầu tiên người đàn ông bên cạnh cô quỳ trước đấng thiêng liêng để cầu xin một phép lạ.
*
Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, Tâm nhận quyết định về một ngôi trường nhỏ ven sông thuộc huyện Diên Khánh, cách Nha Trang 18 cây số. Hằng ngày, từ 5 giờ sáng, Tâm đã phải đạp xe đi. Mùa đông năm đầu tiên rét cóng, đến được bến sông, tay chân, mặt mũi cô dường như đông cứng lại.
Cũng ở cái bến sông này, Tâm nhiều lần ứa nước mắt, thấm thía câu nói: "Muốn qua sông phải lụy đò".
Có lần Tâm về trễ, gặp đêm tối trời, gió lành lạnh, cô cắm cúi đạp xe.
Vài gã thanh niên ngông cuồng rú ga xe máy vọt lên, ép sát một bên làm Tâm mấy lần suýt xuống ruộng.
Linh tính báo cho cô biết, hình như cô đang bị một tay đi xe đạp kèm sát từ lúc rời khỏi bến đò.
Ban đầu cô không để ý, vì vào giờ khắc này, trên đường vẫn còn nhiều người qua lại. Song những thanh âm kẽo kẹt phát ra từ cái xe ấy khiến cô không nén được tò mò.
Đó là một chiếc xe đạp đòn giông không vè chắn, gồng gánh nào cuốc, rựa, thúng, mủng, bao tải. Chủ nhân của nó là một người đàn ông trẻ, ăn mặc theo kiểu dân làm rẫy không chuyên. Đôi mắt sáng của anh nhìn cô thân thiện.
Tâm ngơ ngác, dường như cô đã gặp anh ở đâu đó. Bất giác, cô cũng nhoẻn miệng cười lại. Tay lái của cô bỗng chao đi vì một cái ổ gà nằm chễm chệ trên đường.
"Trời tối, cô giáo phải cẩn thận đó nghe".
"Ủa, nhưng anh là ai?".
Người đàn ông cười nhẹ: "Tôi làm bảo vệ cho cô lâu nay mà cô không biết sao?".
Tâm rất đỗi ngạc nhiên.
Sau này nhắc lại, Phục nói: "Lúc đó anh không có ý định làm quen vì mặc cảm thân phận, nhưng ánh mắt và nụ cười của em trong trẻo quá".
Họ quen nhau giản dị như thế. Phục làm rẫy ở khu kinh tế mới Đất Sét, cách trường Tâm dạy hơn 5 cây số. Gia đình, vợ con anh ở Nha Trang. Một tuần, anh về nhà được đôi ba lần.
Phục là luật sư của chế độ cũ, chưa hết thời gian tập sự đã chịu cảnh thất nghiệp. Vợ anh là cô nuôi dạy trẻ. Con gái đầu lòng của họ mới lên hai. Tổ ấm gia đình anh thực sự là thiên đường thu nhỏ.
Từ đó, mỗi buổi chiều về nhà, Tâm thường thấy Phục chờ sẵn dưới bến đò. Đi bên anh, cô cảm thấy tin cậy.
Phục cũng thường kể về vợ con anh. Chị là tiểu thư con nhà giàu, đem lòng yêu chàng gia sư mồ côi, học giỏi và đầy nghị lực. Bé Nâu là kết tinh của một tình yêu chân thành.
Phục đúng là mẫu người đàn ông lý tưởng của gia đình. Có lần nhìn thấy anh chở một bó lá sau xe, Tâm tò mò hỏi. Phục cười: "Lá để chằm nón".
Cao hứng, anh giảng cho cô một bài về nghệ thuật làm nón ở quê anh. Tâm háo hức: "Nhớ làm cho em một cái nhé!".
Thỉnh thoảng, Tâm cũng ghé ăn với gia đình Phục bữa cơm, dắt bé Nâu đi chơi. Chị Trinh, vợ anh, là một phụ nữ nhiệt tình và chu đáo. Chị xem Tâm như đứa em gái nhỏ cần sự chăm sóc chở che.
Tâm nghĩ họ hạnh phúc biết chừng nào. Đôi khi cô thấy mình có lỗi và mơ hồ nhận ra mình đang phạm phải một sai lầm nào đó.
Nhưng Tâm tin vào bản chất hướng thiện trong con người cô.
Trong mắt Phục, cô hãy còn trẻ con lắm. Anh vẫn tự nghĩ: “Mình không phải con người lãng mạn”.
Anh thù ghét sự phản trắc, chung chạ và chưa bao giờ dành sự quan tâm của mình đến một người phụ nữ nào khác ngoài vợ con. Cái đẹp thể xác của người phụ nữ đối với anh hoàn toàn phù phiếm và giả tạo.
Thế nên Phục không thể nào hiểu nổi vì sao hình ảnh của Tâm khi vừa thoáng gặp đã gieo vào anh một sự rung động mãnh liệt đến vậy. Mãi mãi, Phục vẫn không quên giây phút gặp Tâm lẻ loi ngồi chờ đò trên bến sông vắng giữa bóng chiều.
Cô như tách khỏi thực tại, không ăn nhập gì với thế gian, mông lung đắm chìm vào cõi riêng tư của mình.
Sự mỏng manh của cô gái trước dòng sông màu rêu thẫm cuồn cuộn chảy xiết và những bụi tre um tùm gai góc cứa vào lòng anh một nỗi xót xa kỳ lạ.
Không ai dám gọi tên tình cảm của mình.
Tâm vẫn cứ là cô em gái nhỏ hồn nhiên của vợ chồng Phục. Và họ cứ mong cuộc đời mãi mãi êm trôi như thế.
Đôi khi trước ánh mắt nồng nàn đăm đắm của anh, Tâm quay đi khóc thầm. Nhưng những giọt nước mắt tan đi rất nhanh, như mưa bóng mây vậy.
*
Hai năm sau, Phục nhận được lời mời về làm việc tại một cơ quan lớn ở TPHCM. Công việc phù hợp với chuyên môn của anh và khả năng thăng tiến rất cao.
Cả gia đình nhỏ của anh sẽ cùng đi theo. Tâm đến giúp vợ chồng anh thu dọn nhà cửa. “Hẹn gặp lại!”, bé Nâu òa khóc trong tay Tâm: “Cô Tâm, cô đi với Nâu!”.
Chỉ có người lớn là tươi cười rạng rỡ, chúc nhau may mắn, thành đạt. Tâm biết làm gì hơn. Họ đã đi rồi.
Ánh mắt của Phục vẫn bỏng rát, thiết tha. Nó nhấn chìm Tâm trong nỗi đau đớn. Cả hai đều biết rằng họ không thể nào quên nhau, nhưng không ai dám nghĩ đến ngày gặp lại.
Và cuộc đời có bao nhiêu biến động đi nữa, ánh mắt đầu tiên của Phục sau mười bảy năm dành cho Tâm vẫn không thay đổi. Họ gặp lại nhau không bất ngờ, cũng chẳng tính toán, cứ như là cuộc đời vốn phải như thế, có tan có hợp.
Họ đã kịp biết đôi điều về nhau và cùng tự hỏi: “Phải chăng đây cũng là sự sắp đặt trớ trêu của đấng tối cao”.
Sợi dây ràng buộc ngày xưa đã đứt. Phục ghì chặt Tâm trong vòng tay, hôn lên khuôn mặt đẫm nước mắt của cô. "Em, em à, em có biết là anh đã yêu em từ cái nhìn đầu tiên cách đây 17 năm không?".
Tâm im lặng, nuốt đắng cay vào lòng. Thế là cuối cùng, điều đó đã được thốt ra từ chính miệng Phục. “Em nói đi, em nói yêu anh đi!". Tâm chỉ biết gật đầu, lắc đầu, rồi ngoảnh đi nơi khác.
“Em có biết ngày ấy khi cùng vào làm lễ ở am Chúa, anh cầu xin điều gì không?”.
Tâm mở to mắt nhìn Phục. Anh thì thầm bên tai cô: “Anh khấn rằng nếu Bà linh thiêng thì cho con được đời đời kiếp kiếp ở bên cạnh người con gái này. Nếu kiếp này không được, kiếp sau xin cho cô ấy làm vợ con”.
Tâm lau nước mắt, phì cười: "Còn em thì ngược lại, em nói là Bà ơi, con là người lớn lên trong am điện, nhưng sao con chẳng có đức tin gì cả. Có gì xin Bà chỉ bảo, đừng quở phạt con".
Phục cười hì hì, vẫn cái nét hiền lành nhẫn nhịn của ngày nào. "Em yêu, anh yêu em lắm, em là của anh!". Phục nhắc đi nhắc lại một cách say mê và đầy dứt khoát.
Phục quanh quẩn bên cô hết thời gian cho phép. Anh phải trở về với công việc và hoàn cảnh hiện tại của mình. Tâm biết sẽ không có gì cản trở anh việc tiếp tục tìm đến cô như thế này và chỉ như thế này mà thôi.
Họ đã từng có với nhau những ngày xa xưa rất đẹp và cả mười bảy năm không ngừng mộng tưởng. Mười bảy năm không là của nhau ấy cũng rất đẹp.
*
Rồi Tâm sực nhớ đến kỷ vật ngày xưa bị bỏ quên trên gác xép. Cô bới tung những thứ không tên lên để lôi nó ra ánh sáng.
Tâm không nhầm, nó vẫn còn nguyên vẹn, âm thầm chờ ngày được bàn tay cô vuốt ve. Tâm thận trọng nhấc nó lên tay. Kỷ vật nhẹ bâng mà sao cô cảm thấy như mình đang phải gánh gồng nặng nợ.
Ngày ấy, khi trao cho cô cái nón lá, Phục đùa: “Tình thư một bức phong còn kín". Tâm cũng trả treo lại: "Kín mà hở, nhưng em không thèm mở ra đọc đâu".
Tâm không "đọc" vì có lý do riêng của mình. Cô mang cái nón lá về nhà, thẫn thờ ngắm nó rồi lấy giấy báo gói lại thật kỹ. Khi Phục đi xa, cô cất hẳn nó lên gác xép.
Những lớp giấy báo ố vàng rơi lả tả. Tim Tâm thót lại. Cô lại phạm thêm một sai lầm nữa. Lẽ ra cô không nên bới nó ra. Thật vậy, cái nón lá không còn như ngày xưa nữa, nó nát vụn trong tay cô.
Sau đó, Phục vẫn tiếp tục tìm cách liên lạc, nhưng Tâm không còn để ý đến điều đó nữa. Ngẫu nhiên, họ chỉ có đúng mười bảy ngày để giãi bày những gì chôn kín trong mười bảy năm, rồi lại tiếp tục chia xa. Chỉ có khác một điều, đó là sự chia xa chủ động và tự nguyện.
Mười bảy năm trước, có lẽ Tâm cũng khác bây giờ, Phục cũng vậy.
 

conghieu1978

Moderator
48 Giờ Yêu Nhau

Tác giả: Hà Thanh Phúc
Trời hôm nay có mưa. Những giọt mưa nghiêng nghiêng tựa như muôn vàn nước mắt của thế gian đang rơi xuống. Buồn. Gió lạnh từng cơn thổi qua khung cửa. Ngoài đường, những dòng người hối hả lao đi...
Hôm nay là thứ bảy. Những ngày cuối tuần thế này, tôi thường đi cà phê, nhưng hôm nay thì không. Thôi gặm nhấm cô đơn bằng ly cà phê đắng mà bằng những cơn mưa cuối mùa...
Thói quen cà phê một mình của tôi đã được bao lâu rồi? À, lẩm nhẩm, lẩm nhẩm, một năm ba tháng mười ngày, kể từ cái hôm chia tay anh. Nhanh quá, mới đây mà đã chừng ấy rồi sao? Lắm lúc tôi giật mình lo sợ mình mất đi ý niệm về thời gian. Anh đã có người yêu mới. Anh vẫn vui cười đi ngoài đường và không hề gọi cho tôi một cú điện thoại nào. Vậy mà, tôi vẫn chờ, vẫn đợi. Một sự đợi chờ rất kỳ lạ và mơ hồ. Mong mỏi nhận được một cú điện thoại từ anh vào mỗi ngày thứ bảy... Đợi rồi thất vọng. Nhiều khi tôi tự hỏi mình đang đợi chờ cái gì?
Mỗi ngày tôi đều đọc đi đọc lại những bức thư anh từng viết cho tôi. Tất cả chỉ là một cái gì xa xôi của quá vãng. Đọc xong rồi cười, rồi lại bật khóc...
Đã nhiều ngày tháng, tôi rơi vào tâm trạng trống rỗng. Không rõ buồn hay vui, trong lòng cứ rỗng tuếch, tôi đi và về như một chiếc bóng. Tôi tự thu mình trong một cái vỏ và vĩnh viễn không bao giờ muốn ai phá vỡ nó. Lắm lúc, khi một mình trong căn phòng hẹp, tôi sợ hãi mơ hồ. Tôi đã quá yếu đuối, đã quá tệ hại khi trở nên thế này phải không? Nước mắt tôi trào ra... Không rõ mình có phải đang khóc không? Cảm xúc cũng trở nên mơ hồ...
Lát sau thì trời tạnh. Đứa bạn thân rủ: “Đi cà phê! Tao buồn quá!”. Lát sau nữa thì hai đứa có mặt ở một quán cà phê quen. Ít ra thì hôm nay, tôi không hoàn toàn là một kẻ cô đơn.
Tôi lấy muỗng khuấy nhẹ ly cà phê đen sánh. Hớp một ngụm, đắng nghét đầu lưỡi. “Cà phê đắng quá mày ạ!”. Tôi nhăn mặt bảo.
“Ừ, sao mày lại uống?”. Tôi bật cười: “Cũng giống như tao chấp nhận việc đợi anh...”. Nó ngán ngẩm lắc đầu: “Tao không có ý kiến nhiều chuyện tình yêu của mày, vì dù gì, tao cũng chỉ là bạn thân của mày. Tao chỉ cho mày biết cảm nhận của tao, thế thôi. Tao không muốn đứa bạn thân của tao khổ”. Nó lặng đi ít phút rồi tiếp: “Vì bản thân tao đã quá khổ vì tình”. Tôi mới giật mình nhớ ra, bạn mình đã trải qua mấy lần dang dở. Nó yêu hết mình, tôi vẫn nhớ cái lần tôi khuyên nó: “Mày yêu gì yêu cũng nên giữ lại chút gì cho mình”. Thế rồi nó phớt lờ, nó bảo: “Mỗi người có cách sống khác nhau. Đối với tao, yêu là trọn vẹn”. Rồi khi nó điện thoại cho tôi và nức nở. Tôi chỉ thấy thương nó hơn bao giờ hết. Vội chạy sang chở nó đi cà phê, đi vòng vòng. Lúc ấy, nó luôn nói: “Chỉ có mày, một đứa không có bồ mới sẵn sàng chở tao đi khi tao đau khổ nhất!”. Rồi một hôm, nó bảo: “Tao sẽ không yêu nữa mày ạ”. Tôi thở nhẹ, ừ, thà như thế tốt hơn. Tình yêu? Ừ, tình yêu là gì mà sao mọi người ai cũng phải đau khổ, cũng đớn đau?
Nhưng đó cũng chỉ là một công bố nhất thời khi người ta đã mất mát quá nhiều vì yêu. Bản thân con người, tận sâu trong tiềm thức, yêu vẫn là một nhu cầu, một khao khát lớn lao. Rồi nó lại có người yêu. Nó nói với tôi: “Tao không thể nào thực hiện được lời đã nói, tao cần một tình yêu. Tao không biết sẽ ra sao, nhưng tao đã đón chờ sẵn cuộc chia tay!”. Tôi lắc đầu, tại sao dẫu biết là đau khổ nhưng người ta vẫn lao vào. Con thiêu thân cũng thế, lao vào ánh sáng để rồi chết đi...
Trong một lần tha thẩn trên mạng, tình cờ tôi vào blog của một người con trai có khuôn mặt góc cạnh. Đọc hết những dòng nhật ký của một người dưng, vậy mà khi không lại bật khóc. Ừ thì, cái chuyện chia tay có phải là của riêng ai? Người nào cũng có một góc cô đơn trong tâm hồn. Tôi để lại dòng comment: “Xin cám ơn anh”.
Tôi quen biết anh từ dạo đó.
Kể từ đó, tôi thường xuyên vào blog của anh như một thói quen, chỉ để lại dòng comment “Cám ơn” sau mỗi bài viết.
Có lần, anh viết: “Tình yêu khiến người ta hạnh phúc, nhưng cũng khiến người ta đau khổ. Có lẽ, ta sẽ cô đơn, sẽ thấy tan nát nếu mất đi tình yêu, đừng né tránh nỗi đau, hãy đối đầu và làm bạn cùng nỗi đau và đơn côi. Rồi có lúc, ta sẽ bước qua được cái ranh giới nhỏ nhoi”.
Tôi không biết mình có bước qua được cái ranh giới mà anh nói hay không. Lòng vẫn băng giá lạnh căm.
Một hôm, anh viết e-mail cho tôi hỏi: “Vì sao lại cám ơn anh?”. Tôi trả lời: “Vì những gì anh viết!”. Tôi trở thành một người bạn của anh. Chúng tôi nói với nhau nhiều. Về quá khứ của mỗi người, về tình yêu...
Đối với tôi, anh là một người bạn ảo. Người ta có thể dễ dàng nói ra tất cả những gì bình thường người ta không thể nói khi bước vào thế giới diệu kỳ này. Hơn nữa, anh ở tận nước Nhật xa xôi...
Thi thoảng, anh điện thoại cho tôi. Anh thường động viên tôi, rằng em đừng bận tâm việc mình cô đơn hay không, rằng có nhiều thứ còn quan trọng hơn nỗi cô đơn kia, em à! Nhưng có lần, tôi hỏi ngược lại anh, thế anh có cô đơn không? Anh vẫn trải lòng mình với cô đơn trên những trang blog đó thôi, anh vẫn chưa có được một người yêu nào đó thôi. Anh chỉ im lặng, rồi lại bảo: “Có những thứ không phải muốn là được. Anh chưa gặp được ai có thể làm anh rung động”.
Tôi bận rộn với chuyện học hành thi cử, anh vẫn e-mail cho tôi đều đặn. Lòng tôi bớt đơn côi vì ít ra, cũng có một nơi san sẻ. Anh cũng bảo: “Cám ơn cuộc sống đã cho anh quen em. Nhóc à! Một người bạn, một người em...”. “Đừng gọi em là nhóc, đã 20 rồi!”. “Ừ, anh gọi là bé vậy!”.
Nhiều lúc tôi bông đùa: “Anh có nghĩ mình sẽ yêu lần nữa?”. Anh đáp lạnh lùng: “Không bao giờ”. Rồi tôi tự hỏi mình, mình sẽ yêu lần nữa không? Anh - người yêu cũ của tôi - vẫn thấp thoáng trong ký ức của tôi...
Một ngày, khi tôi vừa tan học, có điện thoại, tiếng nói quen thuộc làm tôi giật mình: “Anh đang ở Sài Gòn, em đang ở đâu?”.
Nửa tiếng sau, chúng tôi gặp nhau tại một quán cà phê trên đường Nguyễn Trãi. Ở ngoài, anh trông có vẻ hiền lành và dễ gần hơn trên blog. Anh hay cười, nụ cười cũng hiền với hai cái răng khểnh. Hai chúng tôi không nói với nhau nhiều, chỉ nhìn nhau. Rồi anh bảo: “Mắt em buồn quá đó nhóc, nó không nên có ở một người 20 tuổi!”. Tôi trả lời: “Cũng không nên có ở một người 25, phải không?”. “Hôm nay, em có thể dành cho anh cả ngày để tâm sự không? Ngày mai anh đã đi rồi...”. “Ngày mai? Nhanh vậy?”.
“Ừ, anh về đây vì công việc mà!”.Tôi đồng ý rồi sau đó, tôi theo anh về khách sạn anh nghỉ. Hai chúng tôi bắt đầu nói với nhau nhiều hơn. Anh nói: “Khi nãy anh có gặp người yêu cũ, đúng là cái gì đã qua hãy cho nó qua, một cách bình thản em à!”. Anh chợt quay sang nói khẽ với tôi: “Em hiền và dễ thương lắm nhóc”.
Anh nhìn tôi, im lặng. Cả hai đều không nói gì nữa.
Rồi tôi nhắm mắt, đón nhận nụ hôn từ anh. Nụ hôn từ gần hai năm tôi mới được nếm lại. Một cảm giác vừa mới mẻ vừa quen thuộc chảy tràn vào lòng. Con tim tôi đập gấp gáp, vội vàng. Anh dừng lại, kê sát vào mặt, nắm lấy tay tôi và bảo: “Chúng ta hãy yêu nhau, nha nhóc!”. Tôi nhìn anh, rồi lại khẽ gật đầu. Tôi và anh đến với nhau, trao cho nhau mà lạ kỳ thay nước mắt ai cũng chảy. Hai kẻ cô đơn đang tìm đến nhau?
Rồi chúng tôi rời khách sạn, tôi chở anh dạo khắp nẻo đường Sài Gòn. Thứ bảy đầu tiên, tôi nghe lòng mình thôi khắc khoải.
Ngày đầu tiên trôi qua chóng vánh. Tôi về nhà mà thao thức, tự hỏi mình đang làm gì? Vội vã? Dễ dãi? Tôi vốn không phải tuýp người đó. Nhưng vì sao? Tôi thở nhẹ, đổ lỗi cho con tim... Hình ảnh của người yêu cũ thấp thoáng, làm tôi bỗng nhói lòng, cảm giác có lỗi. Nhưng tôi biết, mình đã sẵn sàng cho một tình yêu mới...
Ngày hôm sau, anh bận việc với công ty suốt cả buổi sáng. Đến chiều, anh gặp tôi, cả hai đều mừng rỡ tựa như đã xa nhau lâu lắm. Chúng tôi hát khe khẽ cho nhau nghe, tôi dựa vào lưng anh và nhận ra bờ vai anh rộng quá...
Đêm đó, tôi nằm cạnh anh, trong khách sạn. Lại quấn lấy nhau, nóng bỏng. Tôi hỏi: “Còn bao lâu nữa thì anh phải đi?”. “Bốn tiếng nữa em à!” - anh đáp, giọng buồn buồn. “Chừng nào gặp lại nhau hả anh?”.
“Anh không biết em à! Có thể là một năm hoặc hơn nữa. Anh sẽ cố gắng về thăm em...”.
Tôi lặng im, vùi đầu vào ngực anh. Tay quàng qua ôm lấy anh. “Chẳng lẽ yêu nhau mà chỉ gặp nhau mỗi năm một lần sao anh?”. Tôi nhìn anh đợi lời đáp. Anh thì thầm: “Đợi anh, em nhé, khi anh đã có đủ những cái anh cần phải có, anh sẽ về cùng em! Và mình sẽ mãi bên nhau. Chắc khoảng hơn năm năm, anh sẽ về đây sống cùng em... Quan trọng cả hai có được niềm tin”. Tôi không đáp. Đợi? Tôi sẽ phải đợi bao lâu? Và tôi có đủ kiên nhẫn để đợi không? Liệu trong khoảng thời gian quá dài xa anh, tôi có đủ bản lĩnh để giữ mình thoát khỏi những cám dỗ bình thường của một con người. Và anh có thực hiện những gì anh đã nói? Có thật anh đang yêu tôi, hay chỉ nhất thời muốn chung đụng thể xác? Sao anh lại có thể yêu tôi nhanh đến vậy trong khi ngần ấy thời gian anh đã sống trong cô đơn? Rồi tuổi xuân của tôi, có chờ tôi không? Phải làm sao khi anh trở về, tôi không còn trẻ đẹp, và anh sẽ có người khác?
Bao nhiêu câu hỏi rối bời đặt ra, tôi gần như choáng ngợp trong đống câu hỏi đó. Và tôi cũng sợ nghe những câu trả lời. Liệu câu trả lời ấy có phải là chân thật khi thời gian khiến cho mọi điều có thể thay đổi?
Cái gì đến sẽ đến.
Tôi cùng anh trên chiếc taxi đưa anh ra sân bay. Lúc này, anh chỉ nắm tay tôi thật chặt, không nói thêm bất kỳ lời nào. Tôi nhận ra, tay anh thật to, thật chắc...
Hai ngày. 48 tiếng, tôi và anh đã là của nhau.
Có những thứ, tôi gìn giữ bao lâu, lại chấp nhận cho anh trong phút chốc.
Tôi biết gì về anh? Một Việt kiều Nhật. 25 tuổi, chấm hết. Nhưng tất cả niềm tin của tôi đều đặt ở anh...
Nước mắt tôi trào ra, trong giây phút đó, tôi ôm chặt lấy anh.
Tôi chỉ biết mình yêu anh.
Lúc sân bay cất loa gọi, tay tôi đột ngột níu lấy anh một cách vô thức. Anh đi thật sao anh? Đến lúc này, tôi cũng ngờ ngợ, rằng chuyện anh gặp tôi đó, yêu tôi đó, cùng tôi trải qua 48 tiếng đồng hồ chỉ là giấc mơ.
Rồi anh cũng đi. Tôi đứng đó một mình, cố trông theo giây lát, rồi quay về nhà.
Gần một giờ sáng...
Gió đêm thổi tốc vào mặt. Lạnh căm. Tôi không mặc áo khoác, nghe hơi lạnh thổi cả vào tâm hồn. Giá mà trời lạnh hơn tí nữa, không chừng tâm hồn tôi cũng sẽ đóng băng theo...
Anh đi, để lại tôi trong nỗi nhớ thương vô bờ. Càng rơi vào sự cô đơn sẵn có. Những cú điện thoại gọi về cho tôi, tiếng anh nhẹ nhàng hỏi tôi: “Có đợi anh được không?”. Tôi đáp: “Được”, dù trong lòng hoài nghi về chính mình.
Tôi nói với đứa bạn thân về anh. Về việc tôi đã bắt đầu cho một tình yêu mới. Nó bảo: “Mày điên à? Mày vì một người tình hai ngày mà chờ đợi như thế sao? Một, hai hay năm năm hay hơn nữa? Mày đánh đổi cả một thời tuổi xanh và có chắc nhận được lại những điều mày đáng phải có?”. “Tao không biết!”. Tôi thở nhẹ, nhìn rất lung ra ngoài đường. Những chiếc xe hối hả lao đi...
Những tháng ngày dài lại nối tiếp nhau. Tôi vẫn sợ, những nỗi sợ mơ hồ cố hữu, vẫn hay khóc thầm và nhớ anh.
Có những giây phút, tôi cô đơn kinh khủng. Những tối thứ bảy, tôi cà phê một mình và nghe nước mắt chảy ngược vào trong. Nỗi đau đôi lúc thành sự tị hờn khi thấy những cặp tình nhân hạnh phúc bên nhau vào những ngày cuối tuần.
Người ta bảo, sự chờ đợi nào cũng sẽ xứng đáng với cái nó sẽ có.
Tối về nằm dài trong một ngày thứ bảy cô liêu, nằm trong căn phòng 16 m2, giam hãm mình trong bốn vách tường lạnh giá. Tôi khát khao một bàn tay, một vòng tay ấm. Có những người muốn đến với tôi, nhưng tôi không dám đến lại với họ. Tôi nghi ngờ tất cả, liệu mình thử yêu lần nữa, có thành công không hay lại tiếp tục ôm lấy đau thương...
Một ngày như mọi ngày trôi qua. Tôi nhắm mắt và chìm vào giấc mộng mị êm đềm. Trong đó, tôi thấy anh nắm lấy tay tôi và dắt tôi đi trên một con đường không người, rất bình yên...

 

conghieu1978

Moderator
Ác Giả Ác Báo

(Sưu tầm)
Bondar Aleksandr
Đoàn tàu chuyển bánh. Những ánh điện từ nhà ga Sochi nhấp nháy ngoài cửa sổ. Nikolai Petrovitch Sokolovski đặt chiếc vali nhỏ màu đen của mình vào trong góc, rồi xếp nó lên ngăn hành lý phía trên.
Ông ta kiểm tra các ổ khóa vali, và để cho yên tâm ông ta còn giật giật các ổ khóa vài lần; lấy cái áo mưa của mình phủ lên chiếc vali; sau đó đến ngồi bên cửa sổ.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, quang cảnh ven biển chạy dài qua ô cửa sổ làm Sokolovski chán ngấy, ông ta quyết định bước ra ngoài. Nhìn ra cửa sổ hóa ra là một nhà ga lớn. Đoàn tàu bắt đầu giảm tốc. “Nhà ga Lazarevski” - Sokolovski đọc.
Bondar Aleksandr sinh năm 1972 tại Krasnodar, Nga; đã học khoa báo chí Trường đại học tổng hợp Kuban và khoa tiếng Nga và văn học tại Trường đại học Nhân văn Moskva, sau đó học hai năm văn học Nga tại Trường đại học tổng hợp Toronto, Canada.
Bondar Aleksandr từng làm phóng viên cho báo Krasnodar và báo Sochi, nhưng từ năm 1995 anh chuyển đến sống ở Canada. Anh viết nhiều truyện ngắn, truyện vừa (Những đứa con trai của thành phố chết, Trên những tàn tích thành cổ, Những kẻ báo thù xấu xa...), tiểu thuyết (Thời gian của mặt trăng đen, Đĩ đực...) và nhiều tác phẩm khác. Tác phẩm của anh được đăng tải trên các báo và tạp chí của Nga và ở Bắc Mỹ như Thiên Nga (Boston), Ngôn từ tiếng Nga Mới (New York). Từ năm 2003 anh trở thành hội viên Hội Nhà văn Bắc Mỹ.
Truyện Ác giả ác báo được lấy từ tạp chí Xamizdat (Nga), tạp chí trên mạng đăng tải khá đầy đủ những tác phẩm của Bondar Aleksandr.
Đoàn tàu dừng lại, Sokolovski bắt đầu quan sát sân ga, ông ta đã đi qua ga đây nhiều lần nhưng chưa lần nào rẽ xuống nhà ga này. “Hẳn là một nhà ga đẹp - lần nào ông ta cũng thầm nghĩ vậy - Giá mà được sống ở đây thì hay biết mấy”.
Bỗng nhiên ông ta nhìn thấy một người còn khá trẻ, xuống mua thứ gì đó trong một kiôt của nhà ga và bước rất nhanh trở lại tàu.
- Sergei! - Sokolovski gọi và vẫy vẫy tay.
Người ấy ngẩng đầu lên nhìn.
- Anh Sokolovski phải không?
Đúng lúc đó đoàn tàu lại bắt đầu chuyển bánh. Sergei nhảy thật nhanh lên bậu cửa toa tàu, hai tay bám vào hai mép cửa. Đoàn tàu chuyển bánh. Sergei bước vào bên trong toa.
- Cậu cũng đi trên chuyến tàu này à? - Sokolovski ngạc nhiên hỏi, khi Sergei tiến gần lại chỗ mình.
Sergei còn trẻ, trông vẻ ngoài khoảng 30 tuổi, mái tóc đen cắt ngắn, mặc một bộ quần áo với đường may cắt khéo. Một thời gian anh ta từng làm việc dưới quyền Sokolovski trong công ty của ông. Từ đó đến nay cũng vài năm trôi qua, hình như ba hay bốn năm gì đó Sokolovski không nhớ rõ. Bây giờ họ đang đứng đây và nhìn nhau ra chiều thú vị.
Sergei mỉm cười, giang tay ra.
- Đúng là quả đất tròn phải không.
- Cậu cũng về Moskva à?
- Thì còn đi đâu nữa!
- Nghỉ ở Sochi à?
Sergei gật đầu.
- Còn anh?
- Tôi đi công tác. Ký được một hợp đồng nên tôi có thời gian để nghỉ ngơi. Mà nói chung tôi thường đi nghỉ ở Hi Lạp hoặc ở đảo Cyprus...
Sergei gật đầu, mỉm cười.
- Mỗi người mỗi cảnh...
- Cậu muốn vào buồng tôi không - Sokolovski mời - Chúng ta cùng ngồi... Mà ngồi không trên tàu thật chán.
- Sẵn sàng.
Họ quyết định uống để mừng cuộc hội ngộ. Trên bàn trong buồng của Sokolovski có một chai vodka Smirnov và hai chiếc cốc nhựa nhỏ. Cũng có một chút đồ nhắm. Họ bắt đầu chuyện trò. Họ nói về nhiều chủ đề: về các cuộc bầu cử tổng thống trong tương lai, về Chesnia, về Nam Tư. Khi chai rượu đã vơi phân nửa, Sokolovski quan tâm hỏi:
- Thế giờ cậu làm gì?
Sergei hơi bối rối, đưa mắt nhìn cái cốc không và lấy các ngón tay xoay xoay nó.
- Tôi làm ở Bộ Tài chính, giữ một vị trí nhỏ thôi.
- Vị trí gì?
Sergei gãi gãi tai.
- Xin lỗi anh, công việc của tôi rất bí mật, tôi không thể tiết lộ cho anh biết được...
Rồi anh ta nhìn Sokolovski không chớp mắt. Ông này khoát tay ra chiều hiểu biết.
- Không sao.
Bản thân Sokolovski cũng từng làm ăn rất mờ ám, nên ông ta chân thành mến mộ những người kín tiếng. Sergei với tay lấy chai rượu và không vội rót rượu vào cốc.
- Cậu đợi tôi chút nhé - Sokolovski đứng dậy - Tôi phải ra ngoài một lát.
Ông ta do dự trong một giây, sau đó gỡ tấm áo mưa ra, với tay lấy chiếc vali trên ngăn để đồ rồi bước nhanh ra ngoài. Khoảng năm phút sau thì Sokolovski quay trở vào. Vẻ mặt ông ta trông rất bình thản và yên tâm. Sergei vẫn ngồi đợi và đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ.
- Anh Sokolovski - anh ta đăm chiêu nói - tôi muốn hỏi ý kiến anh một việc.
Anh ta đút chai rượu vào trong góc và ngả người về phía trước, khi nhìn qua cửa sổ thấy các bờ biển tối đen, chỗ thì như thể chạng vạng, chỗ thì sang sáng dưới ánh trăng tháng tám.
Sokolovski đặt chiếc vali vào đúng chỗ cũ, và lại lấy áo mưa của mình phủ lên nó. Sau đó ông ta ngồi xuống đối diện với Sergei, hơi ngả người ra và đặt hai tay trước bụng.
- Anh là người năng động, giàu kinh nghiệm - Sergei bắt đầu - tôi coi trọng ý kiến của anh. Tôi muốn anh cho tôi một lời khuyên. Đơn giản là một lời khuyên.
Sokolovski gật đầu và tỏ ý sẵn sàng lắng nghe.
- Trong công việc của tôi, tôi thường buộc phải làm những gì mà tôi không muốn làm. Nói thế nào cho anh hiểu bây giờ... - Sergei nhún vai - Lương tâm tôi cắn rứt... Thế mà tôi vẫn buộc phải làm... Anh có hiểu tôi không?
Sokolovski gật đầu.
Sergei lục tìm trong các túi và lấy ra một bao Marlboro. Anh ta rút ra một điếu và đưa lên miệng. Sau đó, sực nhớ ra là ở đây cấm hút thuốc, anh ta bỏ điếu thuốc xuống mặt bàn.
- Điều quan trọng - Sokolovski nói - là kiếm được tiền. Tiền phân biệt một người đàn ông với một con đực. Tiền khiến ta trở nên tự do và độc lập. Bởi vì, cái nghèo ấy mà, là điều đáng sợ nhất trong cuộc sống này. Cái nghèo biến cậu thành kẻ yếu đuối mà người ta tha hồ chèn ép và ấn đầu ấn cổ. Tiền lại nâng cậu lên đỉnh cao của thế giới, làm cậu trở nên tự do.
Bởi, tự do là gì? Là quyền hành đối với những người khác. Loài người là những con mãnh thú và những con sói núi độc ác. Chúng liếm giày và ăn thịt những kẻ yếu hơn mình. Không thể có bình đẳng giữa những người bình đẳng. Sự ngu ngốc tràn ngập. Tự do... tự do vì thế chính là khi những người khác phủ phục dưới chân cậu. Mà tiền lại cho cậu cái tự do này. Điều quan trọng là thế đấy.
Còn tội lỗi... tội lỗi cũng chạy vào nhà thờ làm vấy bẩn nhà thờ. Cậu cần gì nghĩ đến tội lỗi. Và còn nữa... Cậu phải hiểu một điều quan trọng nhất trong cuộc sống này cậu cần phải hiểu, nếu muốn sống và sống một cách bình thường. Đó là loài người trên thế giới này được chia thành hai phần bất bình đẳng: những người tháo vát và những kẻ ngù ngờ. Tự cậu hãy quyết định xem cậu muốn trở thành ai. Những người tháo vát sống, còn những kẻ ngù ngờ tồn tại. Nó đã là như thế và sẽ là như thế. Đạo đức, danh dự, lương tâm đều do những người tháo vát nghĩ ra hết.
Sergei chăm chú lắng nghe. Sokolovski tiếp tục:
- Họ còn nghĩ ra cả tôn giáo. Cần phải giải thích cho những kẻ ngù ngờ biết vì sao chúng sẽ không bao giờ được sống như những con người và chúng cần phải thỏa hiệp với điều này.
Sergei bối rối.
- Nhưng chúng ta có lẽ không nên làm rối tung tôn giáo lên ở đây thì tốt hơn?
Sokolovski xua tay.
- Nhưng xin lỗi cậu. Không ai có thể trở về từ thế giới bên kia, mà cũng chẳng ai nhìn thấy Chúa Trời cả. Hay có thể là tôi nói không đúng?
Sergei nhún vai.
- Có lẽ anh nói đúng.
- Thế đấy - Sokolovski căng thẳng cởi các khuy áo bên trên - ông ta cảm thấy ngột ngạt - Tất cả các ông vua, các nhà quí tộc, những người thống trị đều là những người tháo vát, còn những người phục vụ họ, những đầy tớ, những nông nô, những nô lệ, là những kẻ ngù ngờ. Những người tháo vát nghĩ ra luật pháp. Họ nghĩ ra cho những kẻ ngù ngờ vốn muốn nghe theo tôn giáo.
Luật pháp luôn luôn và ở khắp mọi nơi bảo vệ cho những người tháo vát và bảo vệ họ khỏi những kẻ ngù ngờ. Những kẻ ngù ngờ không thích tất cả điều này, và chúng tạo ra các cuộc lật đổ mà rốt cuộc cũng quay trở về với cái máng lợn của ông lão đánh cá. Nhưng một số kẻ thông minh hơn trong số đó đã vươn mình lên cao và trở thành những người tháo vát. Tất cả lại trở về như trước.
- Nhưng nghệ thuật, văn học - Sergei cố gắng phản bác - lại luôn luôn dạy rằng cái ác cuối cùng tất bị trừng trị, và người ta nên hành động theo lương tâm...
- Nghệ thuật cũng là một phát minh của những người tháo vát - Sokolovski đứng dậy khỏi chỗ ngồi - Nó còn là một cái bẫy giăng ra cho những kẻ ngù ngờ. Cậu hãy tự nhìn xem: nghệ thuật, luật pháp, tôn giáo tất cả đều chỉ nói về một điều: hãy làm điều tốt và đừng làm việc xấu. Kẻ nào làm việc xấu tất sẽ bị trừng trị. Tôn giáo cảnh báo, luật pháp đe dọa, đạo đức răn dạy, nghệ thuật rao giảng.
Tất cả chỉ về một điều: đừng giết chóc, đừng trộm cắp, đừng lừa đảo. Đúng thế hay không? Nhưng cậu nhìn chung quanh xem: ở bất kỳ đất nước nào, bất kỳ thời đại nào, những kẻ nắm quyền cũng đều ăn cắp, giết người và lừa đảo. Họ sống sung túc và sẽ sống sung túc cho đến chừng nào thế giới này còn tồn tại. Mà ai tuân thủ những giới luật của họ, người đó sẽ luôn ngốn cả phân. Người tháo vát sẽ chùi nó khỏi gót giày và thuyết giáo cũng như tuân thủ tất cả những gì mà chính anh ta không định tuân thủ.
Sokolovski ngả người về phía trước. Ông ta mệt nhoài nhưng hài lòng với cái mớ quan điểm bất khả xuyên thủng của mình. Sergei cau mày. Anh ta muốn phản bác nhưng không hiểu sao lại thôi, chỉ buồn bã gật đầu.
- Tự cậu phải quyết định - Sokolovski kết luận - rằng cậu sẽ thuộc hạng người nào. Nếu cậu không muốn làm một kẻ ngù ngờ, hãy quên “danh dự” và “lương tâm” đi. Đó là ảo tưởng. Cậu sẽ có danh dự khi cậu có tiền và cậu có thể mua được tất cả. Lương tâm... lương tâm... đó là hãy làm những gì cậu thấy có lợi cho mình và luôn biện hộ cho mình.
Sergei gật đầu tuyệt vọng.
- Sokolovski, anh đã thuyết phục được tôi - anh ta đứng dậy khỏi chỗ - Thành thật mà nói, tôi những muốn tìm lý do để phản đối... nhưng chẳng tìm thấy lý do nào cả... Nhưng dù sao đi nữa thì vẫn phải có những ngoại lệ nào chứ? Có thể có những điều mà tốt hơn là ta không nên làm? Phải có những giới hạn chứ?...
- Sergei - Sokolovski lắc đầu - tôi không biết cậu làm gì ở Bộ Tài chính và tôi cũng không cần biết. Cậu hãy thản nhiên làm công việc của mình. Hãy làm những gì miễn là cậu có tiền. Hãy làm và quên béng lương tâm đi. Nếu cậu là người thông minh, hãy quên đi.
- Được thôi - Sergei rút trong túi ra một khẩu súng lục có thiết bị giảm thanh - Được thôi - Anh ta ngắm mục tiêu - Tôi không làm trong Bộ Tài chính, Sokolovski ạ. Mà điều này thì quan trọng gì.
Sokolovski từ từ há hốc mồm.
- Chắc anh đi Sochi để ký một hợp đồng đặc biệt?
- Sergei, cậu làm gì thế?..
- Thế thì tôi biết rằng trong vali của anh, chiếc vali mà anh giữ cẩn thận đến mức đi vệ sinh cũng mang theo người có gì rồi...
- Sergei, việc này không tốt đâu. Vì chúng ta biết nhau đã lâu...
- Thế “không tốt” là gì? Không tốt - đó là khi không có tiền trong túi. Anh chả đã nói thế còn gì?... Mở vali ra ngay!
Sokolovski đứng dậy lấy vali xuống.
- Tôi không biết mã khóa - ông ta nói một cách kiên quyết.
Nhưng Sergei lắc đầu.
- Tôi đếm đến ba. Một...
- Được, tôi mở.
Sokolovski mở hai ổ khóa vali bằng những ngón tay run rẩy và khó bảo. Sergei đã không nhầm. Trong vali đầy những đồng đôla.
Sokolovski hơi run khi nhìn thấy nòng súng lơ lửng trong không trung, cách trán ông ta 3cm. Ông ta đã hiểu chuyện gì đang xảy ra.
- Sergei - ông ta lắp bắp - Cậu không sợ Chúa sao...
- Chúa nào, Sokolovski? Anh đã bảo không ai nhìn thấy Chúa. Và không ai còn trở về từ thế giới bên kia...
Đầu Sokolovski xoay mòng mòng với những suy nghĩ đầy mâu thuẫn. Cần phải nói điều gì đó, cần phải nói ngay nhưng... nói gì đây? Vì ông ta đã nói tất cả trước đó rồi!
 

conghieu1978

Moderator
Ái Tình Theo Khẩu Phần

(Sưu tầm)

Xu hướng của đàn bà, - Giep Pitơx nói, sau khi đã có một vài ý kiến bàn về vấn đề này, - thường hướng về phía mâu thuẫn. Đàn bà muốn cái mà các cậu không có. Cái gì càng có ít, đàn bà càng muốn nhiều. Họ thích lưu trữ các loại xuvơnia về những sự kiện thực ra chẳng có trong đời họ. Cái nhìn một phía đối với sự vật không đội trời chung với bản tính đàn bà.
Tớ có một điểm dở bẩm sinh và được những chuyến du lịch phát triển lên, - Giep nói tiếp, mặt đăm chiêu nhìn cái bếp lò nằm lọt giữa đôi chân ghếch cao. - Tớ nhìn một số sự vật sâu hơn đa số mọi người. Tớ đã hít no hơi xăng, đã diễn thuyết trước đám đông hầu như tại tất cả các thành phố của Hoa Kỳ. Tớ mê hoặc người đời bằng âm nhạc, tài hùng biện, sự khéo léo của đôi tay và những thủ thuật ranh mãnh, đồng thời bán cho họ hàng kim hoàn thuốc men, xà phòng, thuốc mọc tóc và đủ thứ tạp nham khác. Trong lúc đi chu du, phần để giải trí, phần để chuộc tội, tớ đã nghiên cứu đàn bà. Muốn hiểu được một ả đàn bà, con người ta cần cả một đời, nhưng những mầm mồng kiến thức về nữ giới có thể đạt được, nếu ta dành cho nó mười năm nghiên cứu cần cù, kĩ lưỡng. Trong lĩnh vực này, tớ đã biết được rất nhiều điều bổ ích khi rao bán ở miền tây kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh, - đó là sau chuyến đi Xavanna của tớ qua vành đai bông. Dạo ấy là thời kì phát đạt đầu tiên của bang Oclahôma. Thị xã Gatơri mọc lên ở giữa bang này, vùn vụt như thổi. Đó là một thị xã điển hình ra đời trong cao trào bùng nổ kinh tế: muốn tắm rửa phải xếp hàng, nếu bạn ngồi ăn trong tiệm lâu quá chục phút thì phải trả thêm tiền chỗ ngồi; còn nếu ngủ đất trong khách sạn, sáng ra xin cứ việc chi tiền như nghỉ biệt thự.
Về quan điểm lẫn tư chất thì ở đâu tớ cũng thích tìm những chỗ đánh chén ngon lành nhất. Tớ tìm được một nơi hết sức vừa ý. Đó là một tiệm ăn căng bạt của một gia đình vừa mới mở. Gia đình ấy đến thị xã này theo vết chân sự bùng nổ kinh tế. Họ đã dựng gấp một ngôi nhà nhỏ vừa để ở vừa để nấu nướng và chăng thêm lều bạt áp vào ngôi nhà làm tiệm ăn. Lều này chăng đầy những tờ quảng cáo nhằm giành giật từ vòng tay tội lỗi của các biệt thự và khách sạn kẻ lữ hành mệt mỏi. “Hãy nếm bánh quy nhà chúng tôi”, “Bánh rán nóng với xirô phong, những món bạn vẫn ăn từ thuở bé”, “Gà rán của chúng tôi lúc sống chưa đến tuổi cục tác” đấy là những dòng chữ có nhiệm vụ kích thích sự tiêu hoá của khách ăn. Tớ mới bụng bảo dạ rằng cái thân xác tớ cần tọng một chút gì đó chiều nay tại chính tiệm ăn này. Sự việc diễn ra đúng như vậy. Chính tại đây tớ đã làm quen được với Mâymi Điugân.
Ông già Điugân - kiểu dân ăn không ngồi ở xứ Inđiana, cao tới sáu bộ (1) - nằm trên ghế xích đu hồi tưởng lại vụ thất bát năm một tám linh sáu. Bà lão Điugân nấu bếp, còn Mâymi thì phục vụ khách.
Chỉ vừa trông thấy Mâymi, tớ đã hiểu ngay là cuộc tổng kê dân số đã phạm một sự nhầm lẫn. Ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đúng ra chỉ có một cô gái mà thôi! Mô tả nàng chi tiết thật là khó. Vóc nàng xấp xỉ một thiên thần, nàng có đôi mắt, lại còn điệu bộ nữa chứ. Nếu các cậu muốn biết nàng là người như thế nào, thì có thể tìm thấy cả một chuỗi xích, trải dài từ cầu Bruclin về phía tây đến tận trụ sở toà án ở Caonsin Blaphơ, bang Inđiana. Những người như nàng kiếm sống bằng cách làm việc ở các cửa hàng tiệm ăn, trong các nhà máy và văn phòng. Họ có gốc gác theo đường thẳng từ bà Eva, chả là họ đã giàng được quyền làm đàn bà, còn nếu như các cậu dám đặt dấu hỏi về cái quyền ấy thì có khả năng ăn một cái tát ra trò. Họ là những người bạn tốt, họ trung thực và tự do, dịu dàng và táo tợn, và họ biết nhìn thẳng vào cuộc đời. Họ gặp gỡ mặt đối mặt với đàn ông và đã đi đến kết luận rằng đàn ông là giống sinh vật thảm hại. Họ đã đinh ninh rằng sự mô tả của đàn ông trong các tiểu thuyết đọc trên tàu hoả tựa như chàng hoàng tử trong cổ tích, chẳng hề được thực tế xác nhận.
Đấy, Mâymi cũng là một cô gái như vậy. Toàn bộ con người nàng toát lên sức sống, sự vui vẻ và tính linh lợi, với khách thì mau mồm mau miệng: thật chết cười mỗi lần nghe nàng đáp. Tớ không ưa khai quật tận lòng sâu các cảm xúc cá nhân. Tớ vẫn theo cái thuyết cho rằng những mâu thuẫn và những mối tơ vò của cái bệnh có tên gọi là bệnh tương tư là những thứ cũng riêng tư giống như cái bàn chải đánh răng. Theo tớ, các bản tiểu sử những trái tim chỉ nên tìm vị trí cho mình bên cạnh các tiểu thuyết lịch sử về đời sống buồng gan trên các tạp chí dành cho việc rao tin. Vì thế xin các cậu thứ lỗi, nếu tớ không liệt kê ra đây danh sách đầy đủ của những tình cảm của tớ đối với Mâymi.
Chẳng bao lâu tớ đã nhiễm thói quen thường xuyên có mặt ở quán vào những lúc ít người. Mâymi tiến lại phía tớ, trong bộ áo dài đen và tạp dề trắng, miệng mỉm cười và nói: “Chào anh Giep, sao anh không đến đúng giờ đã định? Anh cố ý muộn để mọi người phải lo lắng hay sao? Gà rán - bít-tết - thịt lợn - dầu - trứng tráng - với - giăm-bông - … Nàng gọi tớ là Giep, nhưng điều ấy tuyệt nhiên không có nghĩa gì cả. Chẳng qua nàng cũng phải phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Gọi thế thì vừa nhanh, vừa tiện. Tớ thường ăn hai bữa trưa và cố kéo dài chúng như ăn tiệc trong xã hội thưọng lưu, nơi người ta đổi đĩa, đổi vợ và trao qua đổi lại những câu đùa giữa các lần nuốt. Mâymi chịu đựng tất. Có lẽ nào nàng lại làm ầm ĩ lên và bỏ mất một đôla chỉ vì người ăn không đến theo thời gian biểu đã định.
Ít lâu sau lại thêm một cậu chàng nữa tên là Eđ Côliê nảy ra cái thói tọng đồ ăn vào giờ trái khoáy. Vì có tớ và cậu ta mà giữa bữa ăn sáng với bữa ăn trưa và bữa ăn trưa với bữa ăn chiều đã bắc những cây cầu nối thường xuyên. Qnán ăn biến thành rạp xiếc với ba vũ đài, thành thử Mâymi hoàn toàn không còn thời gian nghỉ ở hậu trường nữa. Thằng cha Côliê đầy những thủ đoạn ma lanh. Hắn làm việc đâu như ở đội khoan giếng hoặc bảo hiểm, có quỷ mới biết được - tớ cũng chả nhớ ở đội nào. Hắn cũng khá về khoa ăn nói và dễ gây được thiện cảm. Tớ với hắn đã tạo ra trong quán một bầu không khí tình tự và thi đua. Mâymi giữ mình trên tầm cao vô tư và phân phối đều sự lịch thiệp đối với cả hai người chúng tớ, giống như chia bài ở câu lạc bộ ấy: một quân bài cho tớ, một quân bài cho Côliê, và một quân bài đặt cái. Trong ống tay áo không còn một quân bài nào cả.
Tất nhiên tớ với Côliê đã làm quen với nhau và thỉnh thoảng còn thù tạc với nhau trong bốn bức tường của lều quán. Không kể những trò khôn ranh, cậu ta gây được ấn tượng tốt và sự đối địch của cậu ta cũng rất ngộ.
- Tao thấy mày thích ngồi lì trong phòng tiệc sau khi khách đã tản về hết đấy nhé. - Có một lần tớ nói với Côliê để xem hắn đối đáp như thế nào.
- Ừ, - Côliê nói, vẻ tư lự. - Sự ồn ào cảnh chen vai thích cánh làm thần kinh nhạy cảm của tao khó chịu.
- Thần kinh tao cũng thế, - tớ nói - À, cô bé cũng kháu đấy chứ nhỉ?
- À, thì ra thế, - Côliê bật cười. - Nếu mày đã nhắc đến điều đó, thì tao xin báo để mày rõ là cô bé gây được ân tượng không phải là khó chịu đối với thần kinh thị giác của tao.
- Cô ấy làm tao thích mắt lắm, - tớ nói. - Tao đang tán nó đây. Nói để mày biết.
- Tao sẽ rất trung thực, - Côliê nói. - Nếu như ở các hiệu thuốc có bán đủ dịch vị, tao sẽ cho mày một chầu cho mày tha hồ bị bội thực để đạt được cái đích mới thôi.
Thế là bắt đầu cuộc đua nước rút của chúng tớ. Quán ăn cung ứng liên tục. Mâymi phục vụ chúng tớ, vui vẻ, dễ thương và lịch sự. Thần ái tình và người nấu bếp ở quán Điugân làm việc cật lực.
Một ngày tháng chín tớ đã rủ Mâymi đi chơi với tớ sau bữa ăn tối, khi cô ấy dọn dẹp xong. Chúng tớ đi dạo một tí rồi ngồi lên những khúc gỗ ở khu vực cuối thành phố. Dịp may như thế chắc còn lâu mới có, nên tớ đã thổ lộ hết những gì mình muốn nói. Rằng kim cương Braxin và đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh là nguồn thu nhập của tớ, đủ để đảm bảo ấm no cho cả hai, rằng cả hai thứ ấy dù sao cũng không thể cạnh tranh được với ánh mắt của một nàng, rằng họ Điugân cần phải đổi sang họ Pitơx, nếu không đổi thì xin giải thích lí do.
Thoạt đầu Mâymi chẳng nói gì cả. Sau đó bỗng nàng rùng rùng toàn thân. Thế là tớ nghe được những điều bổ ích. Nàng nói:
- Anh Giep ạ, em rất tiếc là anh đã nói ra. Em cũng mến anh, em mến anh nhiều mặt, nhưng trên đời này sẽ chẳng có người đàn ông nào em lấy làm chồng đâu và sẽ chẳng bao giờ có cả. Anh có biết trong con mắt em, đàn ông là cái thứ gì không? Đó là nấm mồ, là nấm mồ để chôn bít-tết, thịt lợn kho, gan xào, trứng tráng với giăm-bông. Trong tâm khảm em đã in đậm hình ảnh của họ như thế. Em đã thử chống lại cảm giác ấy, những không tài nào chống được. Nghe nói các cô gái khen hết lời chồng chưa cưới của mình, em không hiểu nổi. Đàn ông, cái cối xay thịt và chạn đựng thức ăn đều gây ra ở em những cảm giác giống nhau. Có lần em đi xem kịch, nhìn thấy một diễn viên mà các cô gái đều chết mê chết mệt. Em ngồi xem mà nghĩ bụng, không hiểu anh ta thích loại bít-tết nào - còn tái, chín vừa hay đã rán già và loại trứng nào - còn lòng đỏ nhùng nhùng hay đã luộc nhừ, chỉ có bấy nhiêu thôi. Không, anh Giep ạ. Em sẽ không bao giờ lấy chồng. Để mà toàn trông thấy anh ta sáng đến ngồi ăn, đến trưa lại quay về ăn, rồi cuối cùng lại vác mặt về ăn tối, chỉ ăn, ăn, ăn ấy à…
- Nhưng mà, Mâymi này, - tớ bảo, - cái đó rồi sẽ qua. Tại em đã làm công việc này nhiều quá đấy thôi. Nhất định rồi em sẽ lấy chồng. Đàn ông không phải bao giờ cũng chỉ ăn.
- Còn em thì lúc nào cũng quan sát thấy họ ăn. Không, em sẽ nói cho anh biết em sẽ làm gì. - Mâymi bỗng tràn đầy cảm hứng, đôi mắt nàng sáng lên. - Ở Têri Hot có một cô gái tên là Xiudi Phoxtơ, bạn gái em. Cô bạn ấy làm ở quán điểm tâm ngay nhà ga. Em cũng đã làm hai năm ở tiệm ăn chỗ ấy. Xiudi còn kinh tởm đàn ông hơn, bởi vì những người đàn ông ra ga ăn bao giờ cũng vội cuống vội cuồng. Họ vừa tán tỉnh vừa nhồm nhoàm nhai cùng một lúc. Khiếp! Em với Xiudi đã quyết rồi. Chúng em sẽ dành dụm tiền, khi nào đủ sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ và năm acrơ (2) đất. Chúng em đã để ý đến một khoảnh đất. Chúng em sẽ sống với nhau và sẽ trồng hoa viôla. Em khuyên người đàn ông nào phàm ăn tục uống đừng nên đến gần trang trại của chúng em dưới một dặm.
- Ồ, thế chả lẽ các cô gái không bao giờ… - tớ cất tiếng. Nhưng Mâymi đã dứt khoát cắt ngang.
- Không, không bao giờ. Họ chỉ nhấm nháp gọi là đôi chút thôi.
- Anh thì cho rằng kẹo…
- Lạy trời, anh hãy nói sang chuyện khác đi, - Mâymi đáp.
Như tớ đã nói, kinh nghiệm này đã chứng minh cho tớ rằng bản tính đàn bà đời đời hướng tới những ảo ảnh và ảo tưởng. Hãy lấy nước Anh mà xem - bít-tết đã tạo nên nó, nước Đức thì do xúc-xích đẻ ra, còn chú Sam hùng mạnh như ngày nay là nhờ bánh rán và gà rán. Nhưng các cô thiếu nữ có tin điều ấy đâu. Họ cho rằng tất cả là do Sếchxpia, Rubinxtên và đội khinh kị binh của Thêơđo Rudơven làm nên.
Tình thế của tớ thì ai mà chẳng nản lòng. Không thể có chuyện cắt đứt Mâymi được. Thế nhưng cứ nghĩ đến việc phải từ bỏ thói quen ăn uống xưa nay thì tớ lại buồn nẫu ruột. Tớ đã nhiễm phải cái tật ấy từ sớm quá. Hai mươi bảy tuổi đời mà tớ đã mù quáng lao đầu vào thảm hoạ và ngả theo tiếng gọi mê hoặc của con quái vật khủng khiếp là thực phẩm. Thay đổi muộn quá rồi. Tớ đã trở thành loại nhai lại hai chân hết phương cứu vãn. Có thể đánh cuộc bằng món tôm hùm với món bánh rán, cuộc đời tớ thế là đi đứt vì cái thói ấy.
Tớ tiếp tục ăn ở quán Điugân, hi vọng Mâymi rủ lòng thương. Tớ tin vào tình yêu chân chính và nghĩ rằng nếu nó thường đã phải chống chọi lại với sự vắng mặt của một bữa ăn thịnh soạn thì biết đâu, nó sẽ biết chống chọi lại với sự có mặt của chính bữa ăn ấy. Tớ vẫn tiếp tục chịu sự điều khiển của tật xấu tai hại, nhưng mỗi lần tớ bỏ một miếng khoai tây vào mồm trước mặt Mâymi là tớ cảm thấy có lẽ mình đang chôn vùi những hi vọng ngọt ngào nhất của bản thân.
Côliê hình như cũng ngỏ lời với Mâymi và cũng nhận được câu trả lời tương tự. Ít ra thì có một hôm hắn chỉ gọi một tách cà phê và một mẩu bánh lương khô rồi ngồi nhấm nháp miếng bánh hệt như một tiểu thư khuê các trước đó đã nếm thịt bò xào bắp cải dưới bếp. Tớ liền bắt chước và cũng chỉ gọi cà phê và bánh lương khô. Kể cũng láu cá đấy chứ hả? Ngày hôm sau, hai đứa lại lặp lại như thế. Ông già Điugân từ bếp lên bưng cái món đài các của chúng tớ.
- Các cậu mắc chứng ăn không ngon hả? - Bác ấy hỏi với giọng của người cha, tuy không phải không có sự châm biếm. - Tôi đã đổi con Mâymi xuống bếp rồi, cho nó nghỉ ít lâu. Phục vụ bàn này cũng không vất vả, không ảnh hưởng lắm đến bệnh thấp khớp của tôi.
Tớ với Côliê đành phải quay trở lại với những thứ thực phẩm nặng dạ dày. Lúc ấy tớ bỗng phát hiện ra mình ăn ngon miệng kinh khủng, đúng là “ngồi ăn núi lở”. Tớ ăn đến nỗi nếu có bước qua ngưỡng cửa vào gặp Mâymi lúc ấy thì nàng sẽ căm ghét tớ lắm. Sau đó tớ phát hiện ra mình đã trở thành nạn nhân của một mánh khoé đầy báng bổ và đê tiện mà Eđ Côliê đã rắp ranh bẫy tớ. Tớ với hắn ngày nào cũng đi uống lai rai trong thành phố để làm dịu bớt cơn đói. Cái thằng xỏ lá ấy đã mua chuộc gần chục gã phục vụ, thế là những gã này đã rót vào từng cốc rượu uytxki của tớ một lượng đáng kể thứ chất cay làm từ táo kích thích sự ngon miệng do hãng Anacôn sản xuất. Nhưng còn trò bịp cuối cùng mà hắn định chơi tớ, còn khó quên hơn nhiều.
Một hôm không thấy Côliê ló mặt đến quán nữa. Một người quen chung có nói rằng buổi sáng hắn đã rời bỏ thành phố. Như vậy là kẻ thù duy nhất của tớ chỉ là tấm bảng món ăn. Vài ngày trước khi đi biệt tăm, Côliê đã tặng tớ hai chai uytxki hảo hạng, tuồng như là của người anh họ ở Kentơcki gửi cho hắn. Bây giờ tớ có cơ sở để nghĩ rằng thứ uytxki ấy hầu như chứa toàn món chất cay Anacôn là từ táo kích thích sự ngon miệng. Tớ vẫn tiếp tục ngốn hàng tấn thực phẩm. Trong con mắt Mâymi, hơn bao giờ hết, tớ vẫn là loài hai chân chuyên nhai lại.
Khoảng một tuần sau khi Côliê mất hút, có một đoàn triển lãm trưng bày của lạ đến thành phố và ở trong một lều bạt gần đường sắt. Một buổi chiều tớ ghé vào chỗ Mâymi, thì bà mẹ nàng bảo với tớ rằng Mâymi cùng đứa em trai là Tômat đã đi xem triển lãm rồi. Việc này lặp đi lặp lại tuần ba lần. Chiều thứ bảy tớ lại bắt gặp Mâymi đi xem triển lãm về. Tớ bèn rủ nàng ngồi lại một lát. Nàng đã thay đổi hẳn. Đôi mắt dịu dàng hơn và long lanh sáng. Thay vì một Mâymi Điugân chỉ chực trốn chạy khỏi tính tham ăn của giới đàn ông, đi chăm sóc hoa viôla, trước mặt tớ là một Mâymi đáp ứng được với dự liệu của Chúa trời và cực kì thích hợp với việc sưởi lòng trong ánh kim cương Braxin và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh.
- Chắc là em đang bị lôi cuốn rất nhiều vì cái triển lãm chưa từng có về các sinh vật kì diệu và lạ mắt? - Tớ hỏi.
- Dù sao cũng giải trí được ạ. - Mâymi đáp.
- Rồi em sẽ phải đi tìm sự giải trí để thoát khỏi sự giải trí ấy, nếu ngày nào em cũng đi xem.
- Đừng nổi nóng lên thế, anh Giep! Chẳng qua em chỉ muốn bứt khỏi những ý nghĩ về bếp núc.
- Những sinh vật kì diệu ấy không ăn à?
- Không phải tất cả. Một số bằng sáp.
- Đừng có dính vào đấy là được. - Tớ nói nặng tuy không có ẩn ý gì, chẳng qua quen mồm mà thôi.
Mâymi đỏ mặt. Tớ chẳng hiểu ra làm sao nữa. Trong lòng tớ bừng lên một hi vọng là bằng sự chung thuỷ của mình tớ sẽ làm nhẹ bớt tội ác khủng khiếp của cánh đàn ông là công nhiên nhồi nhét thực phẩm vào cơ thể. Mâymi loáng thoáng nói đến các vì sao, trong những ngôn từ lịch sự nhất. Tớ cũng hứng chí tán về sự kết giao của những con tim, về tổ ấm gia đình sưởi bằng tình yêu chân chính và những đồ nhóm lửa đã được cấp bằng phát minh. Mâymi lắng nghe không nhăn mặt, thế là tớ đã bụng bảo dạ “Chú mày đã làm nhẹ được sự căm ghét trùm lên những kẻ phàm ăn tục uống rồi đấy! Chú mày đã giẫm được lên đầu con rắn ẩn trong lọ nước chấm rồi đấy!”.
Chiều thứ hai tớ lại mò đến Mâymi. Nàng với cậu em trai lại đi xem triển lãm các vật kì diệu mất rồi.
“Lạy trời cho bốn mươi lăm hà bá quơ cái triển lãm ấy đi cho rồi! - Tớ rủa. - Tròi đánh thánh vật đời đời cái triển lãm ấy! Amen! Ngày mai ta phải đích thân đến đấy xem có cái chết tiệt gì mà hấp dẫn thế. Chả lẽ một con người được tạo hoá sinh ra để thừa kế đất đai, lại có thể bị mất người yêu thoạt đầu vì thìa dĩa, rồi sau đó vì một cái triển lãm mà vé vào cửa chỉ có mười xu?”
Chiều hôm sau, trước khi đi xem triển lãm, tớ tạt vào nhà Mâymi và được biết nàng không có nhà. Lần này nàng không đi với Tômat, vì cậu này đã đón tớ ngay trên bãi cỏ trước lều quán để gạ tớ.
- Anh Giep, anh sẽ cho em gì nào, nếu em nói chuyện này cho anh nghe?
- Cái gì đáng giá thì anh sẽ cho.
- Chị Mâymi phải lòng kì quan ở triển lãm rồi. Em chẳng thấy thích. Nhưng chị ấy lại thích. Em đã nghe lỏm được họ nói chuyện với nhau. Em nghĩ chắc anh thích nghe. Anh Giep này, hai đôla đối với anh có nhiều quá không? Ở trong thành phố có bán một khẩu súng, em muốn…
Tớ lục túi và đổ vào mũ cho Tômat một đồng xu bạc. Tin Tômat báo như dao đâm vào tớ, khiến ý nghĩ của tớ chao đảo mất một lúc. Rót tiền lẻ cho Tômat, tớ mỉm cười một cách ngớ ngẩn, mà trong lòng tan nát. Tớ nói giọng nửa ngố nửa pha trò.
- Cảm ơn Tômat… cảm ơn… em nói cái kì quan… ấy à? Nó có gì đặc biệt, cái của quái dị ấy, hả Tômat?
- Đây này, - Tômat vừa nói vừa lôi từ trong túi ra tờ chương trình bằng giấy vàng khè và dúi vào mũi tớ. - Anh ta là vô địch thế giới về nhịn đói. Chắc là vì thế mà chị Mâymi cứ bám lấy anh ta. Anh ta không ăn gì cả. Anh ta sẽ nhịn đói bốn mươi chín ngày. Hôm nay là ngày thứ sáu… Anh ta đây này.
Tớ nhìn dòng chữ mà ngón tay Tômat chỉ vào: “Giáo sư Eđuacđô Côliêri”.
- À! - Tớ thốt lên thán phục. - Giỏi thật, Eđ Côliê. Xin chịu ông cái khoản nhanh trí. Nhưng tôi không nhường cô gái cho ông đâu, hiện tại nàng chưa phải là kì quan phu nhân.
Tớ rảo bước đến ngay triển lãm. Khi tớ tiến vào lối cửa sau thì có một người nào đó thò đầu ra như con rắn, đứng thẳng chân lên và lao thẳng đến tớ như chú ngựa muxtang. Tớ tóm ngay cổ người đó và quan sát kĩ dưới ánh sao. Đó là giáo sư Eđuacđô Côliêri mặc quần áo của giống người, với nỗi tức giận trong một con mắt và sự sốt ruột trong con mắt kia.
- Hêlô, kì vậy! - Tớ nói. - Đợi một chút nhé, để tao ngắm mày cái nào. Chà chà, làm kì quan của thế kỉ chúng ta, hoặc là của lạ từ đảo Boocnêô thích thật! Thế trong chương trình người ta tôn xưng cho mày cái tên gì?
- Giep Pitơx này, - Côliê nói khe khẽ. - Thả tao ra, không thì tao nện mày bây giờ. Tao đang vội chết đi được đấy. Bỏ tay ra!
- Nhẹ nhàng nào, nhẹ nhàng nào, Eđi, - tớ nói, tay vẫn giữ chặt cổ áo anh chàng. - Cho phép một người bạn cũ chiêm ngưỡng mày cho thoả đã. Mày bày ra trò này phải nói là đại bợm đấy, con ạ, nhưng chớ có to mồm về chuyện đấm nhau: mày không thích hợp với việc ấy đâu. Cái tối đa mà mày có bây giờ - đó là sự táo tợn kha khá với cái dạ dày rỗng.
Tớ đoán không nhầm, hắn yếu như sên. Hắn lên tiếng:
- Giep ơi, tao sẵn sàng tranh cãi với mày về chủ đề này bao nhiêu hiệp cũng được, chỉ cần tao có nửa tiếng luyện tập và một thỏi bít-tết diện tích hai bộ vuông để luyện. Tổ sư đứa nào sáng tạo ra nghệ thuật nhịn ăn! Hãy xích nó lại đời đời cách cái giếng không đáy chứa toàn bít-tết nóng sốt chỉ hai bước chân! Tao bỏ cuộc đấu đây, Giep ạ. Tao đào ngũ đây. Mày sẽ tìm thấy nàng Điugân trong lều: nàng đang ngắm một xác ướp sống và một con lợn bác học ở đấy. Nàng thật là một cô gái kì diệu, Giep ạ. Lẽ ra tao đã thắng trong cái trò này, nếu như chịu được trạng thái không ăn uống thêm một thời gian nữa. Mày phải thừa nhận rằng đường đi nước bước của tao trong trò tuyệt thực này đã được suy tính để hoàn toàn có khả năng thành công. Tao đã tưởng như thế. Người ta bảo tình yêu lay chuyển cả núi non. Cứ tin tao đi, đấy chỉ là lời đồn sai lệch… Không phải tình yêu, mà là hồi chuông gọi đi ăn buộc núi non phải rung chuyển. Tao yêu Mâymi Điugân. Tao đã trải qua sáu ngày nhịn ăn để chiếm được tình cảm của nàng. Suốt thời gian này tao chỉ có một lần xơi một miếng, đó là lúc tao đẩy cái thằng xăm đầy mình và giật của nó miếng bánh xanđuych để ăn. Ông chủ cúp sạch lương của tao. Nhưng tao đến đây không phải vì mấy đồng lương, mà là vì cô gái ấy. Vì nàng tao có thể hiến dâng cuộc đời, còn vì miếng thịt lợn rán tao sẽ hiến dâng tâm hồn bất tử của mình. Đó là một cực hình, Giep ạ. Cả tình yêu, cả sự nghiệp, cả gia đình, cả tôn giáo, cả nghệ thuật, cả tinh thần yêu nước đều chỉ là những lời nói suông trống rỗng, khi con người ta đói.
Eđ Côliê tâm sự với tớ bằng giọng lâm li. Chẩn đoán bệnh rất dễ: những đòi hỏi của trái tim cậu ta và những đòi hỏi của dạ dày đang xung đột với nhau, và phái hậu cần đã thắng. Quả thực, tớ luôn thấy mến Côliê. Tớ lục tìm một câu an ủi nào đó, nhưng chẳng tìm thấy câu nào thích hợp cả. Côliê nói tiếp:
- Bây giờ mày hãy thương tao mà để cho tao đi. Số phận đã giáng cho tao một đòn nên thân, nhưng bây giờ tao sẽ giáng cho đồ ăn thức uống một đòn mạnh hơn. Tao sẽ khua sạch tất cả các tiệm ăn trong thành phố. Tao sẽ ngâm mình ngập đến thắt lưng trong món thịt philê và sẽ tắm trong trứng tráng với giăm-bông. Thật kinh khủng khi một người đàn ông phải đến nước từ bỏ một cô gái chỉ vì cái ăn. Thật còn tệ hơn cái anh chàng tên gì nhỉ? Ixav, kẻ đã bỏ cả bản quyền tác giả vì một con lôi. Đói là một điều khủng khiếp. Xin lỗi mày nhé, tao đang ngửi thấy mùi giăm-bông rán ở phía xa xa, nên đôi chân tao đang thúc giục tao băng về hướng đó.
- Chúc mày ăn ngon miệng, Côliê ạ. - Tớ nói - Nhưng đừng có giận tao nhé. Trời sinh ra tao cũng là một đứa phàm ăn nên tao thông cảm với nỗi đau khổ của mày.
Đúng vào phút ấy mùi giăm-bông rán đã bay đến trên đôi cánh của gió trời. Nhà quán quân nhịn ăn chép miệng rồi phi nước đại về phía có mồi ăn.
Tiếc rằng các vị văn hoá xưa nay vẫn quảng cáo về ảnh hưởng thần diệu của tình yêu và lãng mạn không nhìn thấy cảnh này! Thì đây, Eđ Côliê, một con người tinh tế, đầy khôn ngoan mưu mẹo. Vậy mà cậu ta đã bỏ một cô gái, đang làm chúa tể trái tim cậu ta và nhảy sang địa hạt của dạ dày trong cuộc truy tìm cái ăn hèn kém. Đó là cái tát đối với các thi sĩ, là sự nhạo báng chủ đề câu khách nhất của văn chương. Cái dạ dày rỗng là đối trọng tốt nhất đối với một con tim tràn trề tình cảm.
Tất nhiên tớ hết sức quan tâm đến việc Mâymi mù quáng tin vào mánh khoé của Côliê đến mức nào. Tớ bước vào trong lều, nơi tổ chức cái triển lãm có một không hai đó, thấy Mâymi ở đó. Dường như nàng ngạc nhiên, nhưng không để lộ sự lúng túng.
- Hôm nay ngoài phố thật là một buổi tối tuyệt vời. - Tớ lên tiếng. - Mát mẻ dễ chịu làm sao, còn tất cả các vì sao thì đứng sóng hàng theo một trật tự tuyệt vời. Em có muốn nhổ toẹt vào những sản phẩm phụ của cái vương quốc loài vật này để đi dạo với một con người bình thường chưa có tên trong chương trình được không?
Mâymi e dè né sáng một bên, và tớ hiểu điều đó có nghĩa là gì. Tớ bèn nói:
- Ôi, anh nói điều này ra với em quả là không dễ chịu, nhưng cái vật kì diệu chỉ nuốt không khí mà sống của em đã chuồn rồi. Hắn vừa mớibò ra khỏi lều bằng lối cửa sau. Bây giờ hắn đã hoà nhập làm một với cái phần háu ăn của nhân loại ở trong thành phố.
- Anh một số chỉ anh Eđ Côliê phải không? - Mâymi hỏi.
- Đúng thế. Nhưng điều đáng buồn nhất là hắn lại bước lên con đường tội lỗi. Anh đã gặp hắn ngoài lều, và hắn đã tuyên bố với anh về ý định tiêu diệt số thực phẩm dự trữ của thế giới. Buồn không thể tả được, khi thần tượng của em đã bước khỏi bục danh dự để biến thành một con châu chấu đi tìm cái ăn.
Mâymi nhìn thẳng vào mắt tớ không rời cho đến khi làm tắc tị những ý nghĩ của tớ.
- Anh Giep, nói những điều ấy thật không giống với con người anh chút nào. Anh đừng có đem anh Eđ Côliê ra làm trò cười. Một con người có thể làm những điều buồn cười, nhưng không vì thế mà anh ta trở nên buồn cười trong đôi mắt của cô gái bởi lẽ vì cô, anh ta làm những điều buồn cười ấy. Những người như Eđ ít khi gặp được lắm. Anh ấy từ bỏ ăn uống chỉ cốt làm vừa lòng em. Em thật tàn nhẫn và bội bạc, nếu như sau việc này lại đối xử không tốt đối với anh ấy. Còn anh, anh có gan làm những việc hi sinh như thế không?
- Anh biết, - tớ nói, sau khi hiểu nàng ngả về hướng nào. - Anh đã có phốt rồi. Anh chẳng thế làm gì được nữa. Vết chàm của kẻ phàm ăn đã đóng lên trán anh. Bà Eva đã định trước điều này khi nghe lời con rắn (3). Thật là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Hiển nhiên anh là nhà vô địch thế giới về ăn.
Tớ nói với giọng cam phận, nên Mâymi cũng mềm lòng chút ít.
- Quan hệ của em với anh Eđ Côliê rất tốt, - nàng nói, - cũng như với anh thôi. Em cũng đã trả lời anh ấy như trả lời anh: đối với em, không có chuyện hôn nhân đâu. Em chỉ thích gặp gỡ, chuyện phiếm với anh ấy. Em cảm thấy dễ chịu vô cùng mỗi khi nghĩ rằng có một người không bao giờ sờ đến dao và dĩa chỉ vì em.
- Thế em không yêu anh ta à? - Tớ hỏi hết sức không đúng chỗ. - Em không có tí ý định nào muốn trở thành kì quan phu nhân à?
Điều này với ai chả có thể xảy ra. Tất cả chúng ta đôi khi đều vượt quá phạm vi những lời nói có suy nghĩ thấu đáo. Mâymi khoác lên mặt một nụ cười mát mẻ, trong đó có bao nhiêu đường thì cũng có bấy nhiêu băng và nói bằng giọng hết sức lịch sự.
- Anh Pitơx, anh không có quyền đặt cho em những câu hỏi như vậy. Trước tiên anh hãy nhịn ăn bốn mươi chín ngày để giành được cái quyền ấy đã, rồi sau có thể em mới trả lời anh.
Vậy là, ngay cả khi Côliê, bằng sự thèm ăn của mình, không còn ngáng trở tớ nữa, thì triển vọng quan hệ riêng của tớ với Mâymi cũng không khá lên. Rồi công việc ở Gatơri cũng chẳng ra làm sao cả.
Tớ đã ở đó quá lâu. Kim cương Braxin mà tớ bán đã dần dần kém đi, còn đồ nhóm lửa thì dứt khoát không chịu cháy những khi trời ẩm. Trong công việc của tớ bao giờ cũng có cái giây phút mà ngôi sao may mắn bảo tớ: “Hãy chuyển sang thành phố lân cận”. Hồi đó tớ du ngoạn trên chiếc xe ngựa có mui để khỏi bỏ sót các thị trấn nhỏ, thế là sau đó mấy hôm tớ thắng ngựa và đánh xe đến chào Mâymi. Tớ chưa bỏ cuộc đâu. Tớ chỉ định đến Oclahôma Xity có công chuyện độ một hai tuần, sau đó sẽ trở về và tiếp tục mở các cuộc tấn công Mâymi.
Các bạn có thể hình dung được không, - tớ đến nhà Điugân thì thấy Mâymi ở đó, kiều diễm trong bộ áo dài xanh, và ở cửa có cái hòm của nàng. Hoá ra là cô bạn của nàng tên là Lôtti Ben làm nghề đánh máy ở Têri Hot, thứ năm tới sẽ đi lấy chồng và Mâymi sẽ đi một tuần để tham dự lễ cưới ấy. Mâymi đang mong một xe hàng chở nàng đến Oclahôma. Tớ khinh bỉ nhìn chiếc xe rồi xung phong nhận chở hàng. Bà mẹ Điugân thấy chẳng tội gì phải từ chối cả, - vì chở hàng xưa nay vẫn phải mất tiền mà lại, - nên nửa tiếng sau tớ đã cùng Mâymi ngồi trên chiếc xe có bộ díp nhẹ và nhắm hướng phía nam lên đường.
Buổi sáng hôm ấy thật đáng khen hết chỗ nói. Làn gió nhẹ thổi hây hây, cây cỏ hoa lá toả hương, những chú thỏ con vểnh đuôi chạy qua đường cho thêm phần vui nhộn. Cặp ngựa hồng Kentớcky của tớ hướng thẳng về phía đường chân trời; đến nỗi chói hoa cả mắt, khiến lắm lúc tớ phải quay mặt. Không nhìn đường chân trời căng tựa dây phơi quần áo, Mâymi phấn khởi ra mặt, nàng bô lô ba la như trẻ con, nào chuyện về ngôi nhà cũ, nào những trò nghịch ngợm thời đi học, nào những thứ nàng yêu thích, nào những cô ả đáng ghét nhà Giônxơn ở ngay phía đối diện, nơi quê hương nàng, bang Inđiana. Nhưng tịnh không một lời nào về Eđ Côliê, về ăn uống và những đề tài khó chịu đại loại như vậy.
Khoảng gần trưa thì Mâymi mới phát hiện ra giỏ đồ ăn mà nàng định mang theo, đã nằm lại ở nhà. Tớ không phản đối chuyện lót dạ tí ti, nhưng Mâymi không tỏ ra một chút khó chịu nào về chuyện nàng chẳng có cái ăn, nên tớ cũng nín lặng. Đây chính là điểm chốt của vấn đề, nên tớ tránh nói động đến bất cứ đồ ăn dưới bất cứ dạng gì.
Tớ xin rọi chút ánh sáng vào sự việc tớ bị lạc đường trong hoàn cảnh nào. Đường không rõ ràng, bị cỏ che lấp nhiều, mà bên cạnh tớ là Mâymi, người đã thâu tóm hết tâm trí và sự khôn ngoan của tớ. Điều này có thể biện hộ được hay không thì tuỳ các bạn xem xét. Chỉ có điều là tớ bị lạc đường, và trong cảnh chạng vạng, đáng lẽ phải ở Oclahôma rồi, thì chúng tớ lại luẩn quẩn trên địa giới nào đó, trong lòng khô của một con sông còn chưa khai thông, mà mưa đang quất vào người. Ở một bên, giữa đầm, chúng tớ nhìn thấy một căn nhà gỗ trên gò khô. Xung quanh cỏ mọc cùng những loài cây hiếm. Ngôi nhà nhuốm vẻ buồn bã gợi thương cảm. Theo sự đồ chừng của tớ thì hai đứa chúng tớ phải náu mình qua đêm ở đó. Tớ giảng giải cho Mâymi nghe, và nàng dành quyền quyết định cho tớ. Nàng không tỏ ra nôn nao lo lắng, và không làm mình làm mẩy ra dáng khổ ải như đa số những người phụ nữ khác nếu ở vào địa vị ấy, mà chỉ nói: “Thôi được”. Nàng biết rằng nào ai muốn cơ sự này.
Ngôi nhà không có người ở. Trong đó có hai phòng trống. Ngoài sân có một nhà kho nhỏ ngảy xưa vẫn nhốt súc vật. Trên gác xép còn ít cỏ khô từ năm ngoái. Tớ dẫn ngựa vào gian nhà kho cho chúng ăn một ít cỏ khô. Lũ ngựa nhìn tớ bằng cặp mắt buồn bã, dường như chờ đợi sự xin lỗi. Chỗ cỏ khô còn lại thì tớ ôm thành từng bó vào nhà làm nơi ngả lưng. Tớ cũng mang kim cương Braxin và đồ nhóm lửa, vì cả hai thứ ấy không thể chống chọi được tác dụng phá hoại của nước.
Tớ với Mâymi ngự toạ trên sàn, trên nệm gối lấy từ trên xe xuống. Tớ dùng cả đống đồ nhóm lửa, vì đêm ấy trời lạnh. Nếu tớ phán đoán đúng thì toàn bộ sự việc trên khiến Mâymi lấy làm thích thú. Đối với nàng, đó là một cái gì đó mới lạ, một vị trí mới từ đó mà nhìn cuộc đời. Nàng cười nói huyên thuyên, và đồ nhóm lửa của tớ cháy không sáng rực bằng đôi mắt nàng. Tớ có mang theo bên người bao thuốc lá, nên về phần mình, tớ cảm thấy tớ như chàng Ađam trước khi mắc tội. Cả hai chúng tớ đúng là đang ở trong vườn Địa Đàng xưa tốt đẹp. Đâu đó trong đêm tối là con sông Xiôn chảy dưới mưa, và vị thiên thần cầm thanh kiếm lửa còn chưa treo tấm biển “Cấm đi trên cỏ”. Tớ mở hộp ra lấy cho Mâymi đeo lên người nào nhẫn, nào vòng, nào dây chuyền, hoa tai, thắt lưng và khánh hình trái tim. Nàng lấp la lấp lánh như một nàng công chúa triệu phú cho mãi đến khi má rực hồng và nàng đòi có gương đến suýt phát khóc.
Đêm đến, tớ sửa soạn cho Mâymi một chiếc giường tuyệt vời trên sàn bằng cỏ khô, áo khoác của tớ và chăn từ xe đem xuống, rồi khuyên nàng ngả lưng. Còn tớ thì ngồi ở căn phòng khác hút thuốc, lắng nghe mưa rơi và nghĩ đến chuyện biết bao sự khó nhọc đổ xuống đầu con người ta khoảng bảy chục năm trước khi anh ta được mai táng.
Gần sáng có lẽ tớ hơi thiếp đi, bởi vì mắt tớ đã nhắm tít lại, mà khi mở ra thì trời đã sáng và trước mặt tớ là Mâymi, đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ, quần áo tươm tất, với đôi mắt sáng lên niềm vui cuộc đời.
- Hêlô Giep, - nàng thốt lên. - Em thấy đói rồi đấy! Giá em được ăn…
Tớ chăm chú nhìn nàng. Nụ cười biến khỏi khuôn mặt nàng và nàng ném vào tớ cái nhìn đầy khinh thị lạnh lùng. Thế là tớ bật cười và lại nằm lăn ra đất cho dễ chịu hơn. Tớ thấy vui nhộn kinh khủng. Về bản tính và gien di truyền thì xưa nay tớ là thằng hay cười thượng hạng, nhưng lúc này tớ cười ngất, vượt xa mức thường. Khi tớ đã cười chán chê, Mâymi ngồi quay lưng lại phía tớ và toàn thân chứa đầy cảm giác tự tôn.
- Đừng giận, Mâymi, - tớ lên tiếng. - Anh không thể nào nhịn cười được. Em chải đầu buồn cười quá. Giá như em được trông thấy…
- Đừng có kể chuyện cổ tích ở đây, - Mâymi nói giọng lạnh lùng và quyền uy. - Tóc em đâu vào đấy chỉnh tề cả. Em biết anh cười cái gì rồi. Nhìn này, anh Giep, - nàng vừa nói vừa ghé nhìn qua kẽ hở giữa các súc gỗ căn nhà ra ngoài trời.
Tớ mở ô cửa sổ nhỏ bằng gỗ và nhìn ra. Toàn bộ con sông đã chìm cả dưới nước và cái gò mà trên đó có ngôi nhà chúng tớ đang ở, đã biến thành hòn đảo, vây quanh là dòng nước lũ vàng điên cuồng rộng tới một trăm yat. Mưa vẫn trút xuống. Chúng tớ chỉ còn cách ngồi đây đợi một chú chim bồ câu đem cành ôliu tới.
Phải công nhận rằng trò chuyện và giải trí ngày hôm đó mang rặt một vẻ ảm đạm. Tớ ý thức được rằng Mâymi lại chuốc cho mình cái nhìn hết sức một chiều đối với sự vật, nhưng tớ không đủ sức thay đổi cái nhìn ấy. Bản thân tớ thì rạo rực một mong muốn được ăn. Những ảo ảnh thịt băm và những giấc mộng giăm-bông không buông tha tớ và lúc nào tớ cũng nghĩ thầm: “Nào, bây giờ mi sẽ đánh chén cái gì đây, hả Giep? Mi sẽ gọi món gì đây khi người phục vụ đi đến?”. Tớ chọn cho mình những món ăn ưa thích nhất trong thực đơn và hình dung ra cái giây phút chúng được đặt lên bàn trước mặt tớ. Có lẽ điều này xảy đến với tất cả những ai đói cồn đói cào. Họ không thể tập trung ý nghĩ vào cái gì khác ngoài cái ăn. Hoá ra, cái chủ yếu nhất không phải là sự bất tử của tâm hồn, cũng không phải là hoà bình thế giới, mà là một cái bàn ăn xinh xắn với cái bát ăn, nước chấm giả kiểu Uxtơ và chiếc khăn ăn để lau những vết cà phê trên khăn trải bàn.
Tớ ngồi bần thần nhai đi nhai lại, than ôi, chỉ những ý nghĩ của mình và tranh luận kịch liệt với chính bản thân mình về việc tớ sẽ ăn loại bít-tết nào - với nấm hương hay là theo kiểu con cháu những người Âu sang châu Mỹ vẫn ăn. Mâymi ngồi đối diện vẻ trầm ngâm, đầu tì xuống cánh tay. “Khoai tây thì cứ rán theo kiểu quê, - tớ nhủ thầm, - còn bánh cuốn thì cứ tráng lên chảo. Cũng trên cái chảo ấy sẽ rán chín quả trứng”. Tớ lục kĩ các túi xem vô tình có còn sót lại củ lạc hay vài hạt ngô nào không?
Sang đến buổi chiều thứ hai, dòng sông càng dâng cao, mưa vẫn đổ xuống. Tớ nhìn sang Mâymi và bắt gặp trên mặt nàng nỗi buồn vẫn thường hiện lên trên mặt các cô gái khi đi ngang qua quầy bán kem. Tớ biết rằng cô nàng tội nghiệp của tớ đang đói, có lẽ lần đầu tiên trong đời. Nàng có cái nhìn ưu tư thường gặp ở phụ nữ khi đi ăn trưa hơi muộn hoặc khi cảm thấy đằng sau váy bị tuột cúc.
Có lẽ đã đến mười một giờ rồi. Chúng tớ ngồi trong gian nhà xơ xác, mặt lầm lì và lặng im thin thít. Tớ cố xua đuổi khỏi đầu những hình ảnh ăn uống, nhưng chúng cứ trôi dạt về đúng chỗ cũ trước khi tớ kịp xích chúng vào chỗ khác. Tớ nghĩ đến tất cả những món cao lương mĩ vị đã từng được nghe kể. Tớ chìm đắm trong suy nghĩ về những năm tháng niên thiếu và với sự hồ hởi, sùng bái, tớ hồi tưởng bánh bích-quy tẩm mật và xúc-xích chấm nước mắm. Sau đó tớ đi dọc những năm tháng cuộc đời, dừng lại ở những quả táo tươi và táo ướp, ở bánh rán và xirô phong, ở cháo ngô, ở gà con quay kiểu Vơgini, ở ngô luộc, thịt lợn băm viên và ở bánh khoai lang, và kết thúc bằng món ragu Brunxuych là đỉnh cao của tất cả những thứ ngon lành, vì nó chứa tất cả những thứ ngon lành.
Người ta thường bảo trước mắt người sắp chết đuối hiện ra toàn bộ cuộc đời. Cũng có thể. Vậy thì khi con người ta đói, trước mặt người đói hiện lên bóng ma của tất cả các món ăn anh ta đã nếm trong đời. Và anh ta sáng tạo ra những món ăn mới có thể đem lại vinh quang danh giá cho người đầu bếp. Giá có ai cất công thu thập những lời trăng trối của những kẻ chết đói thì hẳn sẽ phát hiện thấy trong những lời ấy có ít tình cảm, nhưng được cái dồi dào tư liệu cho một cuốn sách dạy nấu ăn in đến triệu bản bán cũng hết.
Nhiều phần chắc là những tư duy bếp núc đã hoàn toàn ru ngủ trí óc tớ. Bất giác tớ thốt lên thành lời với một người hầu bàn tưởng tượng:
- Hãy cắt cho dày dày một chút và rán tai tái thôi, sau đó đổ trứng vào - sáu quả nhé.
Mâymi quay đầu lại ngay. Đôi mắt nàng sáng lên và nàng mỉm cười rồi nói líu tíu:
- Còn tôi thì ba quả trứng rán vừa chín với khoai tây. Ái chà, được thế thì còn gì bằng, anh Giep nhỉ. Em sẽ gọi thêm món cơm gà rán, món kem…
- Nhẹ thôi! - Tớ cắt ngang. - Thế còn bánh gan gà, thận xô-tê, lại cả cừu non rán…
- Ôi, - Mâymi ngắt lời tớ, toàn thân run lên, - với nước chấm cay… Cả xalát với thịt gà tây, cả quả ôliu, cả dâu nữa…
Cứ như vậy trong suốt mười phút chúng tớ duy trì cuộc đối thoại cao lâu này. Chúng tớ vòng đi vòng lại trên con đường huyết mạch rồi rẽ vào tất cả các nhánh đường con của đề tài ăn uống, do Mâymi dẫn đường, vì nàng rất có tri thức về các loại danh mục đồ ăn, và những món ăn mà nàng gọi tên càng làm tăng sự thèm khát của tớ. Có cảm tưởng Mâymi đã hoà nhập được với thực phẩm ăn uống và nàng nhìn cái thói háu ăn tội nghiệp ít khinh bỉ hơn so với trước đây.
Sáng ra, chúng tớ thấy nước đã rút. Tớ thắng ngựa và cả hai lên đường, lần theo bùn lầy cho tới khi gặp được con đường khi trước. Chúng tớ chỉ đi lạc mất vài dặm và hai tiếng sau đã ở Oclahôma. Vật đầu tiên chúng tớ dõi mắt thấy trong thành phố là tấm biển lớn của một tiệm ăn, thế là chúng tớ phóng ngay tới. Tớ ngồi vào bàn với Mâymi, giữa chúng tớ là dao, dĩa, đĩa ăn, còn trên gương mặt nàng không phải là sự khinh bỉ, mà là nụ cười, một nụ cười đói và đáng yêu.
Tiệm ăn mới bày biện rất khá. Tớ trích đọc cho người phục vụ rất nhiều dòng trong tờ thực đơn, khiến anh ta ngó ra ngoài xe ngựa của tớ, băn khoăn không rõ còn bao nhiêu người nữa sẽ chui ra từ xe vào đây.
Chúng tớ ngồi như vậy và người ta bắt đầu bưng các món ra. Đó quả là một bữa tiệc cho mười hai quan khách, vả lại chúng tớ cảm thấy mình cũng đúng là bằng mười hai quan khách. Tớ nhìn qua bàn sang Mâymi và nở nụ cười vì sực nhớ ra một điều. Mâymi nhìn bàn ăn như một cậu bé nhìn chiếc đồng hồ có khoá vặn đầu tiên của mình. Sau đó nàng nhìn thẳng vào mặt tớ, và hai giọt lệ to ứa lên trong mắt nàng. Người phục vụ đi xuống bếp lấy thêm món ăn bổ sung.
- Anh Giep ơi, - Mâymi dịu dàng cất tiếng, - em thực là một con ngốc. Em đã nhìn mọi thứ không đúng. Trước kia em chưa bao giờ phải chịu cảnh này. Đàn ông ngày nào cũng phải chịu cảnh đói, phải không anh? Họ to khoẻ là thế, họ làm công việc nặng nhọc là thế, cho nên họ ăn không phải để trêu tức những cô ả phục vụ ngốc nghếch, phải không anh? Đã có lần anh nói… nghĩa là… anh đã hỏi em… anh muốn… Vậy thì, anh Giep ơi, nếu anh còn muốn… thì em sẽ rất sung sướng… em muốn có anh luôn ngồi đối diện với em bên bàn. Giờ thì hãy cho em ăn thêm một chút gì nữa, mau lên, anh nhé.
- Như tớ đã bảo các cậu, - Giep Pitơx kết thúc câu chuyện, - đàn bà thỉnh thoảng cần phải thay đổi quan điểm của họ. Một cảnh mãi cũng làm họ phát chán - nếu vẫn cảnh cái bàn ăn, cái bồn rửa mặt hoặc cái máy khâu. Hãy cho họ sự đa dạng một chút: một chút du lịch, một chút nghỉ ngơi, một chút hờn dỗi nũng nịu xen với những bi kịch nội trợ, một chút vuốt ve âu yếm sau cảnh om sòm trong gia đình, một chút xao xuyến và lẵng nhẵng nói dai, và xin cam đoan với các cậu là hai bên cùng có lợi.
Chú thích
(1) 1 bộ (foot) = 30,48 cm
(2) 1 acrơ (acre) = 0,4 hecta
(3) Nhắc đến sự tích trong Kinh Thánh, khi Eva nghe lời xui của con rắn, cùng chồng ăn trái cây thiện ác và bị Chúa trời trừng phạt khiến con cháu về sau chịu nhiều đau khổ.
 

HDCP

Super Moderators
Ðề: Truyện ngắn (bốn phương-nhiều tác giả)

lão conghieu có truyện ngắn 100 chữ không? :D
 

conghieu1978

Moderator
Chiều muộn

Tác giả: Chu Thị Thơm​
Rồi gió xé tan từng tàu lá. Nhưng những đêm trăng, những tàu lá rách ấy vẫn giãy lên đành đạch để hứng tình như trước đây. Thị bất chợt nhận ra một điều rất lạ. Sao ngày ấy, trăng sáng thế nhỉ?

Làng Vũ Đại.

Một ngày đẹp trời. Tiết xuân se lạnh, trời lắc thắc mưa. Trong làn sương mỏng của mưa, có nhiều tốp các cụ già răng đen nhưng nhức, đang xúng xính trong bộ áo tứ thân màu nâu mới, tay cắp nải chuối, rẽ vào cổng chùa làng.

Mấy hôm nay, Thị Nở không đi kín nước nữa. Thị không có thói quen đi chơi xuân. Từ ngày Chí Phèo mất đi, thị buồn lắm. Thói quen ra sông ngắm trăng khi kín nước mang về lều cũng không còn nữa. Thị lầm lũi như một cái bóng, ra đường không nhìn ai. Tối tối, sau khi đi làm về thị lăn ra chõng nằm. Từ cái chõng tre nơi thị nằm, nhìn ra cửa sổ. Nơi ấy, chênh chếch ánh trăng treo ngang khi ngày rằm đến. Cũng từ khi biết thế nào là tình yêu, thị hay trông chờ cái ngày trăng lên lắm. Thị hết trông trăng lại ngắm những tàu lá chuối. Những tàu lá chuối rách thì rủ xuống, xác xơ, tay lá đua những mảnh xương của cuống lá chìa ra với gió, trông rất thảm thương. Tàu chuối nào còn lành lặn thì vỗ đành đạch, theo làn gió mỗi khi có một cơn gió điên cuồng chạy sầm sập đến.

Khúc sông nhà thị có rát nhiều cát, thoai thoải đổ ra sông. Bờ cỏ xanh mướt trải dài theo dải cát. Con đường dẫn đến bến sông thường thưa thớt mỗi khi chiều về, hoặc vào hôm mưa, hoặc khi không phải vào ngày chợ. Nhưng bến đò không có ở đấy. Muốn sang bờ phải chịu khó đi ngược lên một chút. Ở đó không có nhiều bụi chuối như ở đây, nhưng bù lại có cây gạo cổ thụ trơ tấm thân vạm vỡ với những cánh tay lực lưỡng chĩa về bốn phía. Dưới gốc cây gạo, có ngôi miếu, cũng cổ kính và u tịch theo thời gian. Mùa xuân, từng cành tung những chum hoa đỏ rực về bốn phía quanh mình, rồi lặng lẽ phủ lên gốc cái sắc đỏ của hoa, chồng chất, hệt như bức thảm đỏ. Thuở trước, Chí Phèo mỗi khi ra chợ uống rượu về, lại ngả người lên gốc gạo - làm một giấc say sưa. Bầy bò lông vàng rực tha thẩn, nhẩn nha gặm cỏ ven gốc gạo, thỉnh thoảng lại đuổi nhau. Có những lần Chí bị đàn bò đánh thức bởi một cú hích thật mạnh, qua cuộc hỗn chiến của đôi bò mộng nhà Binh Chức và nhà Lý Cường. Kết quả, cổ của con bò mộng nhà Binh Chức bị rách bởi đôi sừng nhọn hoắt của nhà Lý Cường xuyên thẳng. Nhưng Chí Phèo cũng bị vạ lây, bởi cuộc rượt đuổi tìm ngôi thứ võ sĩ nhà bò của hai con đã vô tình chạm đến nơi Chí đang say sưa dưới gốc gạo. Chí bị sừng con bò nhà Lý Cường sượt qua người, hất tung chai rượu trên tay. Còn mạng sườn thì bị một cú hích mạnh đến nỗi Chí phải ôm rên và nằm im mấy ngày không ra nổi chợ.

Có nhiều người đã thốt lên, tiếc rẻ:

- Phải chi nó (tức con bò) làm một cú thật mạnh, để cho thằng chuyên đi ăn vạ chết luôn, cho dân làng Vũ Đại đỡ khổ…

Nhưng giờ thì Chí chết thật rồi.

Có lẽ chưa bao giờ Thị Nở lại chú ý đến hình thức của mình như lúc này. Thị không có thói quen ngắm mình qua chiếc gương nhỏ xíu hình vuông mà bà cô mua ở chợ làng dạo nọ. Nhưng thị lại muốn soi mình trong làn nước trong veo của dòng sông, của chiếc chum đựng nước dưới gốc cau trước nhà. Mỗi lần thị cúi xuống nhìn mình trong chiếc gương-nước ấy, thị đều nhìn thấy một người đàn bà xa lại, dung nhan kinh sợ chăm chăm nhìn mình. Thị giận người đàn bà kia lắm. Thị thò tay xuống nước, khua khoắng làm vẩn mặt nước lên, và gương mặt người đàn bà kia nhòe theo cơn tức giận của thị.

Bà cô thị là người trải qua những nỗi đau của kẻ bị phụ tình hồi trẻ, bà cũng là người bị dân làng dèm pha bởi không con, nên rất hiểu nỗi niềm đứa cháu gái. Thực lòng, bà không muốn cho thị rơi vào con đường oan nghiệt của kiếp chồng vợ mà theo bà, nó là con đường chết chứ không phải là con đường sống. Bà giơ tấm lưng gầy nhăn nheo ra chìa cho đứa cháu xấu xí xem chứng tích của những trận đòn trong cơn say và sự giận dữ của chồng; rồi vạch tóc cho thị sờ vết sẹo lồi, kết quả một trận đòn thừa sống thiếu chết của chồng vì bà bị cáo buộc cái tội “không biết đẻ”. Cuối cùng không thể chịu đựng nổi những trận đòn vô cớ, bà cô thị đành lết về nhà bố mẹ đẻ trong đêm, thắp hương tạ lỗi với cha mẹ, định nói lời bỏ chồng. Nhưng bố mẹ đẻ càng thương con gái bao nhiêu lại càng có cảm giác nhục nhã vì đứa con bất hiếu bấy nhiêu. Tội không biết đẻ, là tội nặng nhất còn gì?

Cuối cùng, bà lại phải quay về với người chồng vũ phu vì không muốn người mẹ nhảy xuống sông tự tử. Bà trở về nhà chồng, bị người chồng cầm chiếc roi chăn bò đập cho nát tấm thân vốn đã bầm dập, rồi kéo vào chuồng bò suốt đêm, sau khi đóng gióng chuồng lại.

Cũng không hiểu tại sao hai con bò đêm ấy lại không hề chạm vào bà. Hình như chúng biết thương chủ, không dẫm thêm vào tấm thân bầm dập ấy, để bà còn sống đến ngày nay.

Nhưng ông Trời thật có mắt.

Sau khi bỏ vợ trong chuồng bò, gã chồng vũ phu lại vào uống rượu. Uống xong, y lảo đảo ra sông tắm, vì nóng quá. Dân làng biết gã là người bơi rất tài, ấy vậy mà không hiểu sao, hôm ấy y ra sông, rồi vĩnh viễn không bao giờ bơi vào bờ để về nhà hành hạ vợ nữa.

Hai ngày sau, xác y dạt vào vệt cỏ cuối làng, sau khi phập phềnh trên sông. Bọn trẻ trâu trông thấy trên sông có một vật gì lềnh bềnh, hình như là người bởi bàn tay mập mạp, đen cháy chĩa lên khỏi mặt nước. Ánh nắng mặt trời đã thiêu đốt tấm thân ở phía bên trên được nổi lên mặt nước khiến cho cái xác vốn đã trương phềnh, lại còn đen cháy, mọng nước. Khi vớt vào bờ trông rất gớm ghiếc và kinh hãi.

Ngày đưa ma chồng, bà cô thị đã rỏ những giọt nước mắt muộn mằn khi bàn tay run run cúi xuống thắp hương cho chồng. Nhưng đó không phải là những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ của nghĩa vợ chồng. Mà là những giọt nước mắt tiếc thương cho một thời con gái, những giọt nước mắt tủi phận của một kiếp người.

Thế là ơn trời phật, bà cô Thị Nở thoát chết, được trở lại làm kiếp người.

Bà đã cho Thị Nở biết thế nào là nỗi khổ cực, nhục nhã của kiếp làm vợ - kiếp đàn bà.

Ấy vậy mà nó lại đem lòng si mê cái gã nát rượu, không nhà cửa, anh em. Cái gã chỉ biết mỗi việc là rạch mặt đi ăn vạ thiên hạ.

Đứa cháu sắp đi vào con đường cũ của bà ngày xưa.

Nhưng, lần nữa, tạ ơn trời phật, Chí lại chết. Trong giấc mơ, bà cô Thị Nở cũng không dám nghĩ điều đó có thể xảy ra với Chí sớm như vậy. Trong thâm tâm, bà chưa biết cách nào đưa đứa cháu gái xấu xí thoát khỏi vòng trầm luân của kiếp chồng vợ đầy khổ ải mà bà đã trải qua.



Chí chết đã hai con trăng.



Rồi ba con trăng…



Thị Nở vẫn thui thủi một mình không đi đâu. Ngoài những việc cần thiết như đi cấy, gánh nước, xay lúa…thị lầm lũi như một bóng ma. Thị ít cười. Vì vậy mọi người không còn được thấy bờ môi vĩ đại của thị nhe ra trong đám răng to, lộn xộn chĩa ra khỏi miệng một cách tùy tiện và vô cớ.

Cuối năm, bà cô nhắc thị:

- Mày xem nước nôi thế nào còn đi gánh đi chứ! Chiều nay đánh lại cây rơm đi! Rồi ra cổng, vét bùn dưới ao đắp vào mấy cây chuối, để nó bén rễ, cho quả sai hơn….

Mặc, thị bỏ ngoài tai những lời bà cô dạy bảo. Thị đang mải mê ngắm mình trong chum nước của nhà. Thị vẫn thường xuyên ngắm mình như thế! Khi nào thị thích làm thì thị làm, chẳng cần ai sai khiến cả.



Còn hôm nay, tiết xuân quá đẹp.

Bà cô ái ngại nhìn đứa cháu xấu ma chê quỷ hờn tha thẩn một mình với ao chuôm và những chiếc chum nước để chỉnh trang nhan sắc và ngắm mình một cách kỳ dị..

Bà cô thị thấy vậy thở dài: “Nó đã dở hơi, lại im lặng thế kia, chắc là khổ lắm đấy. Thôi, kệ quách , khi nào nó cười thì cười, nó nói thì nói…”. Đoạn, bà cô cùng tốp các bà cụ răng đen chuẩn bị đi lễ chùa.



Bình thường thì không sao, nhưng khi nghe tiếng lao xao của mấy bà cụ chuẩn bị đi du xuân, thị bỗng chột dạ nhớ ra rằng mình đang ở nhà một mình. Tự nhiên, thị có cảm giác vắng vẻ. Cái cảm giác ấy thôi thúc thị vào buồng đi chọn mấy tấm áo tứ thân. Thị tìm cho mình bộ lành lặn nhất. Rồi thị vấn khăn. Thị thắt dải yếm – chiếc yếm màu mận chín bằng vải đũi, mà thị rất thích, ngày xưa thị thường mặc mỗi khi mang cháo sang cho Chí Phèo. Ban đầu Chí thích mê mẩn bát cháo hoa thị nấu và bón cho Chí ăn lúc chí bị cảm gió. Về sau món ăn ấy đã khiến Chí trở thành nghiện ngập. Ngày nào không có cháo hoa, ngày ấy, Chí bần thần không yên.

Thị xuống bếp.

Thị nấu bát cháo hoa.

Rồi thị ra vườn, nhổ một túm hành hoa.

Thị rửa sạch sẽ rồi lấy tay - bàn tay to xù xì thô kệch của thị - ngắt túm hành thành bốn. Thị để ở chiếc đĩa sứt. Rồi ngồi đợi.

Chẳng bao lâu, xoong cháo đã bốc hơi nghi ngút và thơm phức.

Thị đặt chiếc bát sành to nhất trong chạn ra chiếc bàn gỗ cũ kỹ, đoạn lấy muôi múc cháo ra bát. Thị nêm vào đó mấy hạt muối. Sau đó, thị trút hành vào bát cháo, quấy lên cho đều. Tất cả cháo, hành sóng sánh lại dưới bàn tay quấy đều của thị.



Thị đặt bát cháo vào chiếc đĩa, cho khỏi nóng. Đoạn thắt lại dải yếm, trong bộ tứ than màu gụ, thị bắt đầu thận trọng đặt bát cháo vào chiếc làn cói, cẩn thận úp lên mặt bát cháo một mảnh lá chuối tươi. Thị nhón chân lấy chiếc bùi nhùi châm lửa, mang theo nén hương. Rồi thị tất tả đi ngược lên bến sông..

Thị men theo con đường ven sông, nơi thoai thoải vệt cát và bờ cỏ xanh non, chẳng mấy chốc thị đến trước túp lều của Chí ngày xưa. Túp lều không có người ở, lạnh lẽo và xiêu vẹo. Chung quanh, cỏ mọc um tùm. Bọn trẻ chăn trâu sợ Chí ngay cả khi y chết đi, chúng vẫn không dám liều mạng tiến vào túp lều để phá phách.



Chiếc chõng vẫn còn nguyên, mặc dầu chiếc chiếu cói đã bắt đầu mục bởi mưa dột đúng vào nơi ngủ của Chí.

Thị mở tấm liếp nhỏ được treo lơ lửng phía bên trái nhà. Thị chống tấm liếp bằng phên nứa lên, cho ánh sáng tràn vào. Bầy muỗi u u vo ve bay lên loạn xạ. Ánh sáng hắt thẳng vào thị.

“Nhà” của Chí không có bàn thờ.

Thị đặt bát cháo hành còn nóng hổi ấy lên chiếc chõng mà Chí thường nằm ngày nào. Đúng hơn là cả thị cũng đã nhiều lần nằm lên đó.

Thị thắp hương, rồi lạy Chí sống khôn chết thiêng nhận ra tấm lòng của thị, đặng trở về dùng món cháo hành - món ăn ngày xưa mà Chí rất thích. Chưa bao giờ người đàn bà dở hơi biết khấn vái. Nhưng không hiểu tại sao, ma xui quỷ khiến thế nào, mà lần này, thị khấn người tình cứ ông ổng, lưu loát với những lời lẽ thống thiết - cứ như từ thuở sinh ra đến giờ, thị chuyên khấn vái vậy.

Thị xõa tóc xuống. Thuở Chí còn sống, Chí rất thích mái tóc dài của thị. Chí vuốt ve mái tóc thị và từng đun nước lá bưởi, lá sả và hương nhu cho cho thị gội đầu.

Hôm trước, Thị Nở đã gội đầu bằng lá sả, lá bưởi và hương nhu.

Thị ngẩn ngơ nhìn ra sông qua tấm liếp rách.

Ngoài kia, tiết xuân lất phất mưa bay. Những chồi búp chuối non bắt đầu làm loa, chẳng bao lâu nữa sẽ xòe ra thành tàu lá, che bầy kiến khỏi mưa phía dưới.

Rồi gió xé tan từng tàu lá. Nhưng những đêm trăng, những tàu lá rách ấy vẫn giãy lên đành đạch để hứng tình như trước đây. Thị bất chợt nhận ra một điều rất lạ. Sao ngày ấy, trăng sáng thế nhỉ?

Còn bây giờ, làn mưa bụi giăng như một làn sương, bí ẩn và buồn bã, mặc dầu cỏ vẫn non mơn mởn, lá chuối xanh đến rợn người.

Thị mặc cho làn mưa hắt qua tấm liếp mỏng, bay vào “nhà” Chí.

Thị chợt nhớ ra mình đã đến lúc phải về.

Men theo con đường trở về, thị không hề nhận ra bà cô đang đi sau thị. Bà cô thị đặt lên chõng cút rượu, thắp cho Chí thêm tuần hương, rồi hắt cút rượu cùng bát cháo xung quanh nhà Chí, để vong hồn của Chí về thụ hưởng trọn vẹn, không bị đói bởi cả một năm mới bắt đầu.

Bà cô trở về đến nhà. Thấy Thị Nở đang soi mình trong chiếc chum nước, cười toe toét, lộ chìa mấy chiếc răng cải mả to tướng:

- Cô nhẩy, tiết trời đẹp quá, cô nhẩy.

Thị không nhớ mình đã vừa gặp Chí như thế nào. Càng không hề biết mình đã bỏ quên bát cháo hành và chiếc làn cói ở nhà Chí mà bà cô đã phải mang về cho thị.

- Ừ trời hôm nay đẹp. Nở, chải lại đầu đi, xõa tóc, ướt hết rồi!.

Bà cô nhắc thị. Lần đầu tiên sau ngày Chí chết, bà cô mới thấy thị cười.
 

conghieu1978

Moderator
Lỗi Không Tại Bác Sĩ

Tác Giả: Tristian Bernar


Và có lẽ anh ta sẽ giảm thêm được hàng chục cân nữa nếu như con ngựa quỉ quái không hất ngã anh ta. Với chiếc chân bị gãy, anh bạn khốn khổ của tôi phải nằm bó bột mất bốn tháng và càng phát phì một cách khủng khiếp. Nhưng y học ở đây không có lỗi. Nó đã làm tất cả những gì có thể làm được. Chỉ duy có con ngựa là có lỗi mà thôi.
Với trọng lượng tới hơn tạ rưỡi, việc đi đứng của Siménon quả là vất vả. Anh ta biết rõ rằng tôi chơi thân với hầu như tất cả các nhà danh y ở Paris nên đã đến tôi cầu cứu. Tôi bèn giới thiệu anh ta đến chỗ bác sĩ Belartour.
Ông ấy khám bệnh cho anh ta rồi kê đơn thuốc: mỗi ngày phải đi bộ hai tiếng đồng hồ vào buổi sớm và hai tiếng đồng hồ vào buổi tối. Nhưng anh ta lại bắt đầu đau chân, hai mắt cá sưng vù và anh ta lết đi không nổi vì đau đớn.
Tôi bèn giới thiệu anh ta đến chỗ bác sĩ Chitmair, người từng điều trị rất công hiệu những căn bệnh tương tự bằng phương pháp tắm bùn. Siméon đi chữa được sáu tháng và hoàn toàn bình phục.
Anh ta hết lời cám ơn tôi và sẽ rất hạnh phúc nếu như không bị cảm lạnh do ngày nào cũng ngâm chân vào ban đêm. Chữa cái trò vớ vẩn này dễ như bỡn!
Tôi vội gửi anh ta đến chỗ bác sĩ Cholamel, và ông ấy bảo rằng bệnh cảm lạnh là hậu quả của hiện tượng tuần hoàn kém.
Bằng phương pháp chạy điện, sau ba tháng bác sĩ đã trả lại sức khỏe cho Siméon. Rất không may là anh ta thuộc loại người yếu thần kinh và việc điều trị bằng cách chạy điện làm anh ta dễ cáu kỉnh và hay lên cơn động kinh.
Tôi bảo anh ta:
- Ông bạn ơi, không để thế được đâu. Ông hãy đến gặp bác sĩ Langleven và trình bày với ông ấy. Bác sĩ sẽ điều trị cho ông khỏi ngay tức thì.
Langleven kê đơn cho dùng một thứ thuốc an thần. Thứ thuốc này rất công hiệu trong việc điều trị các bệnh thần kinh nếu triệt để tuân theo lời căn dặn của thầy thuốc.
Chẳng bao lâu, sau nửa năm chữa chạy, những cơn động kinh mất hẳn. Song khí sắc anh ta không khá lên. Việc dùng thuốc an thần brôm trong một thời gian dài có khả năng làm hỏng dạ dày.
Trong những trường hợp như vậy không nên trù trừ và tôi gửi anh ta đến chỗ Giáo sư Biradov. Giáo sư bắt anh ta phải theo một chế độ ăn kiêng hết sức nghiêm ngặt: Chỉ được ăn rất ít thịt, ít uống rượu, ít uống nước, ăn thật nhiều khoai tây nghiền, đậu ván nghiền, nói tóm lại là ăn càng nhiều chất bột càng tốt. Và sau ba tháng, Siméon hoàn toàn bình phục.
Bây giờ thì anh ta cân nặng không dưới… hai tạ. Thật là quá đáng!
- Này ông bạn - Tôi nói - Ông cần phải giảm… cân.
- Không đâu - Anh ta nói - Nếu như tôi muốn giảm cân thì người ta lại bắt tôi phải đi bộ, thế thì chân tôi lại sưng và…
- Song cũng có những cách giảm cân khác và không nhất thiết phải đi bộ. Ngày mai, chúng ta sẽ đến gặp bác sĩ Loracheri, một trong những người bạn chí cốt của tôi!
Loracheri kê đơn: cưỡi ngựa.
- Này anh bạn - Ông bác sĩ bảo Siméon- Không nên chọn con ngựa còm trên bãi tập và cưỡi dạo chơi thủng thẳng, trong rừng chẳng hạn. Cần phải chọn một con chiến mã thực thụ. Chính nó buộc anh phải giảm cân.
Người ta chọn cho Siméon một con ngựa bất kham và anh ta bắt đầu luyện tập môn cưỡi ngựa. Và các vị có biết không, chưa được bốn tháng mà anh ta đã sút đi được những hơn 10 cân!
Và có lẽ anh ta sẽ giảm thêm được hàng chục cân nữa nếu như con ngựa quỉ quái không hất ngã anh ta. Với chiếc chân bị gãy, anh bạn khốn khổ của tôi phải nằm bó bột mất bốn tháng và càng phát phì một cách khủng khiếp.
Nhưng y học ở đây không có lỗi. Nó đã làm tất cả những gì có thể làm được.
Chỉ duy có con ngựa là có lỗi mà thôi.
 

conghieu1978

Moderator
Lịch Sử Một Tai Họa

Tác Giả: Sakyo Komatsu​

Chiều đó, lại thăm Nô-mu-ra, tôi ngồi tâm sự với bạn mãi cho đến sáng. Nô-mu-ra là một nhà sinh hóa học còn rất trẻ. Anh vừa ký hợp đồng với một công ty hóa chất lớn và đang nghiên cứu cho họ một vấn đề gì đó. Lòng say mê nghiên cứu làm cho anh hiểu biết rất ít về cuộc sống bên ngoài, vì vậy anh có vẻ hơi lập dị, thậm chí ngây thơ là khác.
- Cậu đang nghiên cứu đề tài gì đó? - Tôi hỏi.
Nô-mu-ra trầm ngâm:
- Mình không thể nói cho cậu biết được, vì phải giữ bí mật cho công ty K.K. Hãy gác chuyện đó sang một bên vậy.
Tôi nhìn đồng hồ:
- Sáng rồi, chuyến xe điện đầu tiên sắp chạy. Tớ phải đến tòa soạn đây.

- o O o -

Đó làm một buổi sáng bình thường, sương mù còn phủ kín các dãy phố vắng tanh. Ở ngã tư, có chiếc xe chở sữa bị đổ. Người lái xe đang kinh ngạc nhìn sữa chảy lênh láng trên xe. Có lẽ vì xe chạy xóc quá mà thùng đựng sữa bị vỡ ra chăng?
Đến gần bến xe điện, tôi gặp một chú bé bán báo. Chiếc túi rỗng lắc lư bên sườn. Chắc chú đã giao hết báo cho người đặt mua. Nhưng sao vẻ mặt chú lại rất lạ lùng, dáng đi thất thểu, nước mắt chảy dài trên má.
Bến xe còn vắng vẻ, phải vài phút nữa mới có chuyến đầu tiên. Như thường lệ, tôi giơ cho người soát vé tấm thẻ đi xe tháng của tôi, rồi định bước thẳng vào xe. Không ngờ ông ta bổng nắm lấy cánh tay tôi, nhã nhặn hỏi:
- Ô hay! Vé của anh đâu?
Tôi nổi cáu, dí tận mắt ông ta tấm thẻ đi xe tháng nằm trong chiếc bao bằng chất dẻo: "Ông này gà mờ chắc!". Nhưng chưa kịp buông miệng, tôi bổng nhận thấy quả là tấm thẻ không còn ở đó nữa. Ma quỷ thật! Rõ ràng chiều qua nó còn nằm đây cơ mà!
"Mất rồi chăng!" - Tôi lẩm bẩm. Thế này thì chẳng những mất thẻ vé tháng mà còn mất cả mấy tờ danh thiếp, mất cả tập vé xe điện ngầm. Định quay lại nhà Nô-mu-ra tôi lại thôi, đoán chừng cậu ta giờ này đang ngủ ngon. Thôi đành về nhà vậy.
Phòng bán vé vẫn chưa mở cửa. Bước lại cạnh chiếc tủ bán vé tự động, tôi thoáng có cảm giác là có cái gì đó đã thay đổi; nhưng cái gì và thay đổi như thế nào thì tôi chưa hình dung ra được cụ thể. Bỏ một đồng xu vào máy, tôi quay tay vặn. Máy chạy lạch xạch, rồi tung ra một vốc bụi. Chẳng có lấy một mảnh vé nào rơi ra cả.
- Này ông soát vé - giọng tôi rất gay gắt - ông chỉ mải đi gây gổ ở những đâu đâu quên cả nhòm ngó đến chiếc máy tự động do ông phụ trách, để cho máy ăn quịt, thả tiền vào rồi mà không chịu nhả vé ra.
- Chả nhẽ máy lấy không của anh tiền? Không thể như thế được.
- Thế với không thế, chỉ biết là tôi mất tiền toi. Nếu máy không hoạt động được thì sao đèn lại sáng? Đích thị là ông định lừa gạt thiên hạ.
Phòng bán vé vẫn chưa mở cửa. Đứng ngoài, nghe loáng thoáng có tiếng người nói trong máy điện thoại:
- Vâng, vâng, tất cả... Sao??? Ở chỗ các anh cũng thế à? Làm thế nào bây giờ?
Khách đã lục tục kéo đến bến xe. Cũng như tôi, một số bị ông soát vé giữ lại, một số khác thò tay vào túi rồi vội vã chạy về, còn số nữa, năm sáu lần quay tay vặn của máy bán vé tự động mà chẳng ăn thua gì. Mọi người xúm lại quanh phòng bán vé, đập cửa thình thình, thét lớn:
- Các ông làm gì ở trong ấy? Có bán vé đi không?
Trong óc tôi đột nhiên nảy ra một ý nghĩ.
Rút cục thì ra là như thế! Ban nãy, chẳng phải tôi đã cảm thấy bến xe hôm nay có gì đổi khác hay sao? Tất cả các bản chỉ dẫn đã biến đi đâu mất. Bản sơ đồ vẽ bằng sơn đỏ trên tấm sắt vẫn còn, nhưng mấy tờ quảng cáo sặc sỡ thì chẳng để lại một dấu vết. Trên chiếc bảng màu xanh lá cây vẫn dán yết thị, chỉ thấy mấy chiếc đinh găm. Nhìn mãi, mới phát hiện được ở dưới khung một lớp bụi khá dày.
Xô xát đã nổ ra ở chỗ bán vé. Đám đông cũng đang ầm ĩ bên phòng bán vé.
- Tệ quá! Muộn giờ làm của chúng tôi rồi. Mở cửa!
Ầm! Cánh cửa bật tung ra.
- Các ông, các bà đừng làm ồn lên như vậy - người bán vé nói to - Chúng tôi sẽ giải quyết ngay... Đằng nào thì cũng nhỡ tàu rồi. Tôi vừa gọi điện thoại hỏi rõ nguyên do. Giờ xin nghe tôi giải thích...
- Không cần nghe giải thích! Vé, bán ngay vé đi...
- Nhưng chúng tôi không có vé, không còn một chiếc vé nào cả... - Người bán vé nói gần như khóc.
- Đồ ăn hại! - Một người nào đó thét lên - Viết giấy chứng nhận cho chúng ông!
- Được. Xin có giấy chứng nhận nếu như... - Có tiếng xe điện từ xa vẳng lại. Đám hành khách reo to rồi chạy ùa về phía xe đỗ. Hàng rào gỗ đổ sập. Thói quen nghề nghiệp nổi lên. Tôi nhảy qua quầy một cửa hàng, giơ chiếc máy luôn luôn đeo bên người, chụp lia lịa. Quang cảnh bày ra trước mắt tôi thật hiếm có. Chụp xong, tôi chạy dọc theo dải đường nhựa, lao lên chiếc xe tắc xi gặp đầu tiên. Vừa đặt lưng xuống ghế, tôi đã cho anh lái biết ngay địa chỉ của tòa báo. Chợt nghĩ đi một quãng đường dài như thế này, ít ra cũng phải trả hàng nghìn yên, tôi thọc tay vào ví để xem lại tiền. Nhưng... Ví rỗng tuếch! Thái dương tôi lạnh toát mồ hôi. Tôi nhớ rất rõ là trong ví vẫn còn đủ nửa tháng lương tôi vừa lĩnh. Tiền đã biến đâu mất cả rồi! Chỉ còn lại trong tay một dúm bột mịn xám nhạt giống như tro.
Tôi chợt nhận ra. Có một cái gì đó vừa tác động lên giấy. Giấy đã bắt đầu biến mất. Tại sao? Vì đâu? Tôi chưa hiểu. Nhưng trong thực tế, giấy đã biến đi mà không để lại đấu vết nào. Nhưng có phải là tất cả giấy đều đã biến mất và biến mất ở khắp nơi chăng? Tôi chợt nhớ đến cuốn phim quí báu tôi vừa chụp được. Thôi, thế là hết. Không còn giấy thì in sao được ảnh, công bố làm sao được ảnh lên mặt báo! Chưa nói gì đến công bố, ngay cả xem lại thôi cũng không được, vì chắc chắn là giấy in ảnh cũng chẳng còn lấy một tờ...
Vừa đặt chân đến tòa soạn, tôi chạy ngay lại chỗ bác thường trực ngồi:
- Bác ơi, cho cháu vay một nghìn yên, cháu sẽ trả ngay.
- Đùa đấy à? - Bác thường trực trả lời - Còn tiền nữa đâu. Bao nhiêu tiền giấy đã biến mất hết.
- Thế bác cho cháu vay tiền bằng bạc hay tiền đồng vậy...
- Không được đâu - Bác từ chối một cách cương quyết - giờ đây chỉ còn loại tiền bằng kim khí này là có giá trị, ai cũng phải giữ lại để tiêu chứ!
Tôi giận quá, đành quay ra gán cho anh lái xe chiếc đồng hồ đeo tay:
- Tôi chỉ còn có cái này để trả tiền xe. Anh cầm tạm vậy. Đồng hồ tốt lắm đấy, có cả lịch xem ngày...
Tôi bước vào tòa soạn. Quang cảnh hiện ra trước mắt thật hãi hùng. Chỗ này một vài anh lồng lộn như thú dữ bị thương, gầm lên chửi rủa, chỗ kia, ở góc phòng, có một số người đang tụ tập vung tay tranh luận một cách gay gắt. Tiếng chuông điện thoại bị át đi. Có tiếng nức nở. Một số người khác cứ ngồi yên trên ghế, lơ đãng nhìn vào khoảng không.
Đối với những người làm báo như chúng tôi, giấy quả là sự sống. Tờ giấy chết đã được chúng tôi làm sống lại để chúng nói lên đủ mọi điều. Từ sớm cho đến khuya, chúng tôi chìm ngập trong giấy. Thế mà giờ đây, không ngờ lại có chiếc đũa thần nào đó, chỉ gõ nhẹ một cái mà làm cho giấy biến đi. Biến đi tất cả, nào tài liệu, bản thảo, cặp giấy, cho đến từ điển, sách vở, hồ sơ lưu trữ. Chẳng còn một tí gì nữa ngoài đống bụi. Sợi dây căng dưới trần nhà mọi khi treo đầy ảnh để hong khô, nay cũng trơ trọi nốt. Bộ phận in và phát hành cũng lâm vào cảnh hỗn loạn không kém.
Trở về tổ biên tập, tôi ngồi phịch xuống ghế. Chuông điện thoại réo lên không dứt, nhưng chẳng ai buồn trả lời. Một anh chàng nào đó, trong cơn mê sảng, nói lảm nhảm: "Thế là khắp nơi, khắp nơi...". Tôi hỏi lại:
- Anh nói sao? Khắp nước Nhật đều thế này à?
- Khắp cả nước và cùng một lúc, hay nói đúng hơn, trong vòng nửa giờ, bắt đầu từ ba giờ hai mươi phút sáng.
- Thế còn ở nước ngoài? - Tôi hỏi gặng - Tổ đối ngoại có nói gì không?
- Điện tín tự ghi cũng không hoạt động được nữa. Các anh ở bên ấy đang thử dùng đài vô tuyến để nghe tin... Hình như cả thế giới...
Điện thoại lại réo lên. Anh bạn ngồi cạnh vớ lấy ống nghe.
- Vâng, vâng, gì cơ? - Chưa nghe hết, anh ta đã quẳng ống xuống, hốt hoảng kêu lên: - Chính phủ đã ra lệnh giới nghiêm và đang thành lập các đội tự vệ. Bực thật, bao nhiêu sự kiện mà không thể viết ra...
- Lệnh giới nghiêm à? Vì sao thế? - Tôi sửng sốt hỏi.
- Lại còn vì sao nữa? Dân chúng bắt đầu nổi loạn, họ đang xông vào các ngân hàng. Cậu hãy tưởng tượng xem, tiền giấy đã hoàn toàn biến mất, tín phiếu, sổ tiết kiệm, chứng từ cũng chẳng còn. Các cửa hiệu phải đóng chặt cửa. Họ sợ...
- Thế còn tiền lương của chúng mình?
- Trời ạ! Còn lương với lậu gì nữa! Tòa báo sẽ phải đóng cửa, chúng mình đều thất nghiệp cả thôi. Muốn theo dõi tin tức, giờ đây chỉ còn một cách là nghe đài phát thanh hay xem vô tuyến truyền hình.
Tôi hỏi xin một điếu thuốc lá.
- Cậu lại đòi hút thuốc điếu nữa kia à! - Anh bạn nhếch mép cười gằn rồi rút từ túi áo ra một hộp thuốc lá rời bọc bao bạc - Mình đã đi lùng các cửa hàng nhỏ, nhưng chỉ tốn công vô ích: tẩu thuốc đều đã bị vét sạch sành sanh...
Một anh phóng viên ở tổ kinh tế bổng hiện ra trong ngưỡng cửa ra vào, lên tiếng hỏi:
- Này, có ai ở đây nhớ được số điện thoại của công ty K.K. không? Nghe nói họ đang chuẩn bị sản xuất một thứ giấy làm bằng chất dẻo. Thế nào, có ai nhớ được số điện thoại của họ không?
- Thì cứ giở danh bạ điện thoại ra mà tra!
- Nói như cậu thì còn phải hỏi làm gì nữa. Danh bạ nào bây giờ cũng chỉ còn là một đống bụi.
Dứt lời, anh ta quay máy hỏi tổng đài, nhưng tổng đài trả lời là hiện giờ không có ai có thể giúp tìm ra được số điện thoại nữa, vì muốn biết họ cũng chỉ có một cách: tra cứu sổ sách, mà sổ sách thì...
Anh phóng viên nghe chưa dứt đã bỏ ống nghe, chạy vụt ra khỏi phòng. Một cậu bạn bỗng lao vào phòng báo tin:
- Các cậu ơi! Vô tuyến truyền hình đã chiếu lại được rồi.
Tất cả mọi người trong phòng ùa ra, vây quanh màn ảnh màu xanh lá cây. Vì sao trước đó đài truyền thanh cũng như vô tuyến truyền hình đều không hoạt động được? Thì ra chương trình phải ghi vào giấy mà giấy thì không còn, cần phải có thời gian để nhớ lại. Vả lại, trong máy thu cũng có khối là giấy, nào giấy cách điện, nào giấy cuốn tụ điện, nào giấy làm loa... Giấy đã biến mất, tất máy phải hỏng. Chiếc máy vô tuyến truyền hình của chúng tôi lúc này thật giống một anh câm. Phát thanh viên cứ lúng ta lúng túng, lúc hiện ra trên màn ảnh, lúc lại biến mất.
Cuộc sống ngày càng hiện lên đầy tai họa rõ rệt. Các bộ trưởng phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp, các cơ quan nhà nước đều tê liệt. Phát thanh viên yêu cầu dân chúng giữ bình tĩnh, nhưng anh ta cứ run lên như đang cơn sốt.
Ông tổng biên tập ở đâu chạy đến nắm vai tôi:
- Này cậu, chạy ngay lại đằng viện vi sinh vật. Nghe đâu ở đó nhà bác học mà tôi có quen đã xác định được nguyên nhân của tai họa này. Sự kiện lớn đấy!
- Đành rằng lớn, nhưng biết dùng phương tiện nào để báo tin?
- Viết lên bảng gỗ rồi đem ra treo trước cửa tòa soạn báo chứ còn gì nữa - rồi chỉ vào ngực, ông nói tiếp - phương tiện của người làm báo là ở chỗ này.
Tôi lao xuống cầu thang. Trước cửa ra vào, một cộng tác viên trẻ vẫn thường xuyên gởi bài tóm chặt lấy tôi:
- Hãy nghe tôi nói một tí đã! Tiền nhuận bút và bản thảo của tôi hiện giờ ra sao rồi? Tôi vừa gởi cho báo mấy bài mà. Trời ơi! Tôi đã dự tính dành cả cuộc đời tôi cho viết sách, giờ đây còn biết làm gì nữa?!
Mặt anh ta trắng nhợt như xác chết. Tôi giật mạnh tay: "Tôi cũng chịu, chẳng biết khuyên anh như thế nào nữa", rồi lao luôn ra ngoài phố.
Phố xá lúc này trông sạch sẽ và đẹp mắt hơn trước nhiều. Không còn một khẩu hiệu, một tờ yết thị. Giấy lộn trong các đống rác cũng biến hết. Đó đây, lủng lẳng một vài tấm bảng, ghi bằng phấn những lời khuyên nhủ mọi người hãy bình tĩnh đề phòng những tai họa khác có thể xảy ra.
Bọn tư bản vỡ nợ đã trốn sạch. Các ngân hàng, các két sắt, các ví đựng tiền đều rỗng tuếch. Liệu có đủ tiền đúc bằng kim loại để tiêu không? Đời sống tài chính bổng trở nên thê thảm như chưa từng thấy. Bao nhiêu giấy tờ quý giá, bao nhiêu cổ phiếu đã biến mất. Vốn của các ngân hàng, vốn của hàng vạn con người đem gởi ngân hàng làm sao có thể tính lại được? Biết tin vào ai bây giờ? Ngành bưu điện cũng chẳng còn gì cả. Thư từ, điện tín, giấy chuyển tiền đều tan thành bụi.
Tất cả các công sở đều ngừng hoạt động. Các nhân vật thượng lưu sống trong một tấn bi kịch cực kỳ xót xa. Công văn, báo cáo, mệnh lệnh, thông tư, chỉ thị đều không còn. Từ nay, còn đào đâu ra được những tập hồ sơ dầy cộp để xin ý kiến, đưa duyệt và lấy chữ ký nữa? Các cơ quan quản lý tài sản, nhà cửa, đất đai cũng sống dở, chết dở. Nhưng có lẽ nặng hơn cả là ngọn đòn đánh vào các nhà trường, các viện nghiên cứu khoa học, các nhà xuất bản.
Người ta không nhắc đến các hãng sản xuất giấy nữa. Họ đang hấp hối. Trên giá cũng như trên quầy các hiệu sách, tuyệt đối không còn gì. Nghĩ đến những bìa sách in nhiều màu, đến những trang sách còn thơm mùi mực mới mà lòng tôi buồn vô hạn.
Dòng suy nghĩ ngày càng miên man. Nhân loại từ nay sẽ sống ra sao đây? Liệu toàn bộ nền khoa học và văn hóa có tồn tại được không? Chẳng riêng gì ở Nhật Bản, mà trên toàn thế giới, không còn bóng dáng của thư viện. Tất cả sách vở, tài liệu, từ điển, sổ tay tra cứu, những công trình khoa học liệu có phải viết lại từ đầu?
Giấy! Phải chăng đó là cơ sở vật chất của nền văn hóa nhân loại? Trên bốn nghìn năm, loài người đã giao phó cho nó tất cả những hiểu biết, những thành tựu tinh thần của mình, để rồi nó bị hủy hoại dễ dàng đến thế hay sao? Giấy đã biến mất. Con người dựa vào đâu để khẳng định rằng mình là "con người"? Liệu có phải trở lại thời kỳ hoang dã xa xưa, lúc tổ tiên chúng ta còn bất lực trước sức mạnh của tự nhiên không?
... Vô tuyến truyền hình vẫn tiếp tục chiếu, người bình luận viết lên tấm bảng đen những dòng chữ ngã nghiêng: "Các bạn khán giả thân mến! Nguyên nhân của hiện tượng bất thường này chưa được xác định. Nhưng Chính phủ đã có những biện pháp gấp rút cần thiết. Các bạn thân mến! Chúng tôi xin lưu ý các bạn: cần phải khôi phục lại nền văn hóa đã mất. Các bạn hãy cố gắng duy trì trí nhớ của mình. Trí nhớ của các bạn là niềm hy vọng cuối cùng. Tất cả những gì các bạn nhớ được, hãy ghi lại vào bất cứ nơi nào có thể ghi được: trên tường, trên bàn, trên tấm áo sơ mi các bạn đang mặc, trên lưng người khác..."
Tại Viện nghiên cứu vi sinh vật, nhà bác học mà ông tổng biên tập giới thiệu cho tôi đang chờ. Tôi ngạc nhiên thấy ông ta không có vẻ lo âu, ngược lại đang mỉm cười, xoa hai tay vào nhau.
- Tôi đã biết rõ nguyên nhân - Ông nói chậm rãi - Đây chỉ là trò tinh nghịch của một loại vi khuẩn. Loại vi khuẩn đó vô cùng độc đáo và cực kỳ hiếm, nó được chở từ Sao Hỏa về. Đúng thế, anh bạn ạ. Loại vi khuẩn kỳ quái này tên là Silnis mayoris.
- Nhưng nếu nó nguy hiểm đến thế, sao người ta lại không diệt trừ nó ngay?
- Đâu phải thế. Nó hoàn toàn không có hại, hoàn toàn không tác động được đến cơ thể con người. Trên trái đất có hàng nghìn loài tương tự sống ký sinh trên những sợi giấy... Tôi cho rằng nó đã thích nghi với những điều kiện của chúng ta, đã hòa lẫn được vào các loại khác trên trái đất.
- Nhưng tại sao những con vi khuẩn này lại có thể gây ra được một thảm họa khủng khiếp đến như thế này?
- À, à, con vi khuẩn nói đây không hề có lỗi, nó chỉ là tổ tiên của loại vi khuẩn do con người tạo ra.
- Sa... ao? Do con người tạo ra à? - Tôi bàng hoàng - Chắc ông muốn nói rằng có một kẻ nào đó đã chủ tâm...
- Chính thế đấy. Hình như đó là một loại vi khuẩn đã được cải tạo mà ta thường gọi là elita. Trước hết loại này sinh sôi nảy nở nhanh hơn loại cũ tới hàng chục lần. Một con hóa thành mười con trong khoảnh khắc. Bề mặt giấy chính là môi trường phát triển của chúng và chỉ trong quá trình phân bào như vậy, chúng mới ăn giấy. Thế là chỉ vài giờ, tất cả giấy trên thế giới này bị những bào tử của vi khuẩn đó tràn ngập và...
- Nhưng ai đã nghĩ đến việc tạo ra loài vi khuẩn nghê tởm đó?
- Điều đó thì tôi cũng không biết. Bào tử vi khuẩn "Sylnis mayoris" được bảo vệ ở Viện sinh vật học vũ trụ. Như vậy, anh có thể đến đấy tra cứu xem ai đã xin chúng đem về nghiên cứu.
Tôi tìm các tấm phiếu tra cứu, nhưng không còn tấm nào cả. Vi khuẩn đã chén sạch. Cả những nhãn dán trên các ống nghiệm và ăm-pun thủy tinh dùng để nuôi cấy các loại vi khuẩn từ vũ trụ mang về cũng biến mất. Các nhà bác học đang hoang mang hết sức. Họ không thể đoán trước được những gì sẽ xảy ra. Dù tiếc đứt ruột, họ cũng buộc phải đốt tất cả những tiêu bản quý giá nhất.
Gặp ai trong viện, tôi cũng túm lấy hỏi. Họ đều trả lời:
- Loài vi khuẩn này chẳng có gì đáng tìm hiểu, nên ít người xin về nghiên cứu. Chỉ có trường Đại học tổng hợp. Anh đến đó, may ra họ có thể cung cấp điều gì mới chăng?
Tôi vội ghi địa chỉ phòng thí nghiệm vào tay áo.
- À, này anh bạn! - Lúc vừa bước ra khỏi cửa, tôi chợt nghe tiếng gọi - Có một phòng thí nghiệm của một công ty xin mẫu vi khuẩn này. Đó là một công ty hóa chất lớn. Công ty "K.K." thì phải.
Một tia chớp lóe lên trong óc tôi. Có thế chứ: Tôi lần ra đầu mối rồi. Lao vào trạm điện thoại, tôi gọi dây nói về cho tổ kinh tế. Vừa may anh phóng viên khi nãy đã từ công ty "K.K." về và cho biết họ không tiếp ai cả. Tôi báo cho anh địa chỉ của Nô-mu-ra và bảo anh cùng với tôi đến ngay đấy, đừng chậm một phút nào. Tôi có thể khẳng định rằng: chẳng phải ai khác, chính Nô-mu-ra đang nghiên cứu thứ vi khuẩn này cho công ty "K.K.".
Khi tôi tới nhà Nô-mu-ra, anh phóng viên kinh tế đã chờ tôi ở đó. Mặt Nô-mu-ra tái mét.
- Cậu đã làm cái gì vậy? - Tôi túm lấy ngực áo anh hét lên - Ai xúi cậu tạo ra cái giống vi khuẩn đáng nguyền rủa ấy?
- Thật là một điều rủi ro - Nô-mu-ra lắp bắp - Mình không hề có ý định tạo ra loại vi khuẩn quái gở này làm gì. Bọn công ty chỉ đề nghị tìm ra một loại vi khuẩn có khả năng làm hư hại giấy nhưng hư hại đôi chút thôi và có khả năng chống lại được các chất kháng sinh thông thường.
- Thế cậu có biết chúng cần loại vi khuẩn ấy làm gì không?
- Khô... ô... ng. Mình tưởng họ dùng để thủ tiêu giấy lộn...
- Trời, bọn bác học các anh thì chỉ thế! - Anh phóng viên kinh tế không nén giận dữ và thương hại - Các anh không hề nghĩ gì đến xã hội. Anh có muốn tôi nói cho anh biết rõ chúng muốn dùng vi khuẩn của các anh làm gì không? Tất cả chỉ vì loại giấy bằng chất dẻo. Công ty "K.K." cùng với một số tơ-rớt nước ngoài đang nghiên cứu kỹ thuật sản xuất loại giấy này. Nhưng chúng rất lo vì giá thành quá cao. Chất lượng giấy bằng chất dẻo lại cũng chưa phải là tốt, trừ tính chịu nước. Chúng nó đã bỏ vào đó biết bao nhiêu tiền của mà vẫn không cạnh tranh được với thứ giấy chúng ta dang dùng. Muốn giấy chất dẻo bán được, chúng nó phải... Nào, anh đã hiểu chưa?
Nô-mu-ra cúi gục đầu xuống.
- Cậu đã hiểu việc làm của cậu chưa? - Tôi nắm lấy cánh tay Nô-mu-ra. Hãy mở to mắt ra. Bọn tư bản chẳng bao giờ cần đến cậu để nghiên cứu thuốc trừ dịch hay khử hơi độc đâu... Thật ra trên thế giới, cũng như ở chúng ta đây thôi, có hàng chục nghìn nhà bác học đang say sưa nghiên cứu vì lợi ích của loài người.
- Làm sao mình có thể biết được những điều các cậu vừa nói cho mình nghe? - Nô-mu-ra chớp chớp đôi mắt, có vẻ thật sự hối hận. - Lúc nhận lời, mình chỉ nghĩ cách sáng tạo ra một loài vi khuẩn có khả năng sống mà thôi, cuối cùng mình đã nắm được bí quyết của chúng nhờ nghiên cứu thiết bị làm sạch không khí... Ở đây, người ta dùng côban 60 nên rất rẻ...
-...?
- Trên sao Hỏa, tia bức xạ vũ trụ mạnh hơn trên trái đất nhiều, có nghĩa là vi khuẩn trên sao Hỏa chịu phóng xạ giỏi hơn vi khuẩn trên trái đất. Nhưng bọn mình đã không tính đến chuyện đó. Một số vi khuẩn phóng xạ đã sống sót và lọt ra khỏi phòng thí nghiệm. Có lẽ tia phóng xạ đã gây nên hiện tượng đột biến, và vì vậy xuất hiện một giống vi khuẩn hoàn toàn mới, chưa ai ngờ tới...
- Điều quan trọng nhất hiện nay là có biện pháp nào để tiêu diệt vi khuẩn đó không? - Cả hai chúng tôi cùng ngắt lời Nô-mu-ra.
- Tiêu diệt hoàn toàn thì khó lắm... - Nô-mu-ra trầm ngâm - Ngay cả vi trùng dịch hạch, loài người đã dầy công nghiên cứu bao nhiêu thế kỷ nay mà vẫn chưa tiêu diệt được nữa là. Mà loại vi khuẩn mới này lại cực kỳ bền vững...
- Như thế là ta đành chịu bó tay sao? - Tôi thất vọng.
- Không hẳn như vậy. Để mình còn suy nghĩ. Thật ra, chẳng ai hiểu rõ loại vi khuẩn này bằng mình. Có thể mình sẽ tìm ra một loại giấy chống lại chúng chăng.
- Cậu hãy bắt tay vào làm việc đó ngay từ phút này đi - Tôi đứng lên tạm biệt Nô-mu-ra - Nếu cậu không thành công, chúng tớ buộc sẽ phải tố cáo cậu trước dân chúng đấy. Rõ rồi chứ?
Chắc các bạn cũng đoán ra rồi. Nô-mu-ra đã thành công. Anh ta phát minh ra được một dung dịch để tẩm vào bột giấy trước khi xeo, làm cho giấy chống lại vi khuẩn Sylnis mayoris. Lúc đầu tờ giấy tội nghiệp chỉ sống được có 2 giờ, rồi 6 giờ, rồi 3000 giờ. Cuối cùng, vi khuẩn đành chịu thua.
Ôi, cảm động biết bao khi được cầm trong tay những tờ giấy trắng! Viết! Tôi viết lia lịa. Và bài đầu tiên của tôi là thiên phóng sự các bạn đang đọc, kể lại một thảm họa đã qua.
Mọi sinh hoạt đã trở lại gần như bình thường. Các bạn cũng nên mừng cho Nô-mu-ra, nhân vật chính trong câu chuyện này. Bây giờ thì nhà bác học trẻ, nhiều tài năng nhưng lại quá ngây thơ của chúng ta, không còn dại dột nữa.
Anh ấy cũng như chúng ta đã biết cân nhắc và suy nghĩ cẩn thận trước khi bắt tay vào nghiên cứu. Song bài học ấy dù sao cũng phải trả bằng một giá quá đắt.
 

HaFe

Well-Known Member
Ðề: Truyện ngắn (bốn phương-nhiều tác giả)

Đọc mệt quá lão ạ ;))
 
Bên trên