Rất nhiều thành viên trong forum ta hẳn biết đến J-Pop, vậy J-Pop có đáng nghe không ???
Về lich sử Jpop, mình xin lấy từ wikipedia
J-pop là từ viết tắt của Japanese pop (nhạc Pop Nhật Bản), nó cũng là định nghĩa tương đối về một thể loại nhạc đã bùng nổ thị trường âm nhạc Nhật thập niên 1990. Từ này cũng ám chỉ tới những nghệ sĩ âm nhạc nổi tiếng của Nhật và được sử dụng bởi giới truyền thông Nhật để phân biệt những nghệ sĩ âm nhạc Nhật với những nghệ sĩ nước ngoài.
Thập niên 1920 tới 1950: Ryūkōka
Ichiro Fujiyama, ca sĩ nổi tiếng của thể loạiryūkōka
Âm nhạc đại chúng Nhật, được gọi là ryūkōka, được phân chia làm hai thể loại enka và poppusu, có xuất sứ từ thời kì Minh Trị, nhưng phần lớn các học giả Nhật coi thời kì Taishō mới là điểm khởi đầu của ryūkōka, vì đây mới là thời kì mà dòng nhạc này giành được tiếng vang toàn quốc. Vào thời kì Taisho, các nhạc cụ phương Tây, đã được giới thiệu vào Nhật từ thời Minh Trị, được sử dụng rộng rãi. Chịu ảnh hưởng bởi những dòng nhạc của phương Tây như Jazz và Blues, ryūkōka đã kết hợp với những nhạc cụ phương Tây như violin, harmonica và guitar. Tuy nhiên giai điệu thì vẫn được viết theo thang âm Nhật Bản
Thập niên 1960: Nguồn gốc của phong cách hiện đại
Kyu Sakamoto - Ca khúc "Sukiyaki" của ông đã trở thành bài hát tiếng Nhật duy nhất từng dành vị trí quán quân trên Billboard Hot 100.
Năm 1956, phong trào nhạc Rock and Roll phát triển rầm rộ nhờ những nhóm nhạc nổi tiếng như Kosaka Kazuya và Wagon Masters, việc những nhóm nhạc này biểu diễn ca khúc nổi tiếng của Elvis Presley là Heartbreak Hotel càng làm khuấy động nóng cho phong trào. Thể loại này được giới truyền thông Nhật gọi là "Rokabirī"" (ロカビリー). Những ca sĩ học tập thể loại nhạc này và dịch lời các ca khúc nổi tiếng của Mỹ, dẫn đến phong trào Cover Pops (カヴァーポップス ,Kavā poppusu). Phong trào Rokabirī đạt đỉnh cao khi 45,000 khán giả Nhật tới xem buổi biểu diễn của những ca sĩ Nhật tại Carnival phương Tây Nichigeki trong một tuần vào tháng 2 năm 1958.
Thập niên 1970: Phát triển
Huyền thoại Southern All Stars
Yosui Inoue. Album Kori no Sekai của ông đã trụ 13 tuần liên tiếp trên bảng xếp hạng Oricon và là album duy nhất từng làm được điều này.
Đầu thập niên 1960, âm nhạc Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi sự hồi sinh của âm nhạc dân gian Mỹ, điều này được gọi là "fōku" (フォーク), dù cho thể loại nhạc này phần lớn là các bài cover của những ca khúc gốc.
Đầu thập niên 1970, âm nhạc Nhật chuyển từ những ca khúc đơn giản được đệm bởi guitar sang các ca khúc được biên soạn phức tạp hơn được gọi là New Music (ニューミュージック ,nyū myūjikku). Thay vào những thông điệp xã hội, các ca khúc thuộc thể loại này tập trung vào các thông điệp cá nhân như tình yêu.
Thể loại nhạc Rock thời kì này chưa thực sự phát triển ở Nhật. Tuy nhiên đến năm 1978, single "Toki yo Tomare" của rocker Eikichi Yazawa trở thành một hit lớn với hơn 639,000 được bán ra. Ông được tôn vinh là người tiên phong cho nhạc rock Nhật Bản. Trong khi đó, Keisuke Kuwata thành lập nhóm nhạc rock Southern All Stars và cho ra mắt năm 1978. Southern All Stars hiện vẫn nổi tiếng cho tới ngày này. Cùng năm đó, Yellow Magic Orchestra cũng ra đời, ban nhạc gồm 4 thành viên này đã phát triển thể loại electropop. Southern All Stars và Yellow Magic Orchestra đã chấm dứt thời kì của New Music.
Thập niên 1980
Chisato Moritaka - Nữ ca sĩ thần tượng nổi tiếng thập niên 80
Trong thập niên 1980, từ City Pop được dùng để mô tả thể loại nhạc đại chúng lấy bối cảnh thành phố, trong đó thành phố Tokyo đã trở thành nguồn cảm hứng đề tài cho nhiều nghệ sĩ. Dù City Pop bị ảnh hưởng bởi New Music, ban nhạc rock Happy End được coi là một trong những người khai sinh dòng nhạc này ở Nhật.
Trong thập niên này các nghệ sĩ nhạc rock trở nên rất nổi tiếng như Southern All Stars, Anzen Chitai, The Checkers, The Alfee, Boøwy và TM Network. Alfee trở thành nghệ sĩ đầu tiên thu hút được 100,000 tới concert. Boøwy trở thành ban nhạc rock có ảnh hưởng, 3 album của nhóm đã giành được vị trí quán quân năm 1988, giúp họ trở thành những nghệ sĩ nam đầu tiên giành được kì tích này trong vòng một năm. Cuối thập niên 1980, phong trào visual kei nổi lên trong thể loại rock của Nhật, đây là một phong cách nổi bật với các nhóm nhạc nam, họ trang điểm đậm với những kiểu tóc kì quái và những trang phục lưỡng tính. Những đại diện tiêu biểu là X Japan và Buck-Tick.
Thời kì này cũng đánh dấu sự nổi lên của những ca sĩ nhóm nhạc thần tượng như Mari Amachi, Saori Minami, Momoe Yamaguchi, Candies, Akina Nakamori, Kyōko Koizumi, Yōko Oginome, Miho Nakayama, Minako Honda và Chisato Moritaka. Những ca sĩ nhóm nhạc thần tượng đã giành được những thành công đáng kể và hiện vẫn là những thành phần chính của thị trường âm nhạc Nhật.
Thập niên 1990
B'z - Nghệ sĩ bán chạy nhất trong lịch sử Oricon Chart
Mr.Children - nghệ sĩ bán chạy thứ nhì trong lịch sử Oricon Chart
Utada Hikaru - Album "First Love" của cô là album bán chạy nhất lích sư Oricon Chart với 7.6 triệu bản
Đây là giai đoạn mà thị trường âm nhạc Nhật Bản phát triển mạnh mẽ với những chiến lược marketing hiệu quả và tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm âm nhạc với số lượng lớn. Thời kì từ 1990 tới 1993 là giai đoạn âm nhạc Nhật bị thống trị bởi những nhóm nhạc ca sĩ được quản lý bởi các công ty, tiêu biểu là các nghệ sĩ như B'z, Tube, T-Bolan, Zard, Wands, Maki Oguro, Deen, Keiko Utokuvà Field of View. Giai đoạn 1994 tới 1997 dòng nhạc dance/techno xâm lấn với sự nổi lên của những nghệ sĩ như TRF, Ryoko Shinohara, Yuki Uchida, Namie Amuro, Hitomi, Globe, Tomomi Kahala và Ami Suzuki.
Trong giai đoạn từ 1997 tới 1999 là giai đoạn đỉnh cao của thị trường thương mại âm nhạc Nhật Bản với hàng loạt ca sĩ đạt được cột mốc hàng triệu bản CD bán ra thị trường. Trong đó nổi bật nhất là việc Hikaru Utada bán được 7.650.000 bản cho album đầu tay First Love sau khi nó được tung ra thị trường tháng 3 năm 1999.
Thập niên 2000: Đa dạng hóa
\
Những nghệ sĩ tiêu biểu của J-Pop thập niên 2000: Arashi và AKB48
Thập niên 2000, những ảnh hưởng của dòng nhạc R&B và Hip Hop tràn tới Nhật. Tháng 11 năm 2000, nhóm nhạc R&B Chemistry bán được 1.14 triệu bản trong tuần đầu tiên The Way We Are.Hay album MusiQ của Orange Range tiêu thụ được 2.5 triệu bản, biến nó trở thành album ăn khách nhất năm 2005.
Đây là giai đoạn nổi lên sự xuất hiện của công ty quản lý nổi tiếng Johnny & Associates, công ty đã đào tào hàng loạt tên tuổi đình đám của âm nhạc Nhật giai đoạn này. Ca sĩ Ayumi Hamasaki tạo nên một cơn chấn động trong lịch sử Giải Thu âm Nhật Bản khi trở thành ca sĩ đầu tiên dành 3 giải grand pix liên tiếp từ 2001 tới 2003.
Thời kỳ này cũng đánh dấu sự trở lại của những cựu binh làng nhạc Nhật. Mặc dù tỉ lệ bán album ngày càng sụt giảm nhưng lượng khán giả tới xem các buổi diễn ngày càng gia tăng. Năm 2007, Eikichi Yazawa trở thành nghệ sĩ đầu tiên biểu diễn 100 lần tại Nippon Budokan. Những nghệ sĩ rock như Mr. Children, B'z, Southern All Stars và Glay vẫn giành được vị trí quán quân trong giai đoạn này. Ca khúc "Sign" của Mr. Children đã giành được giải Grand pix tại Giải Thu âm Nhật Bản năm 2004. Album Home năm 2007 của Mr. Children cũng giúp nhóm vượt qua cột mốc 50 triệu đĩa bán ra tại Nhật, giúp nhóm trở thành nghệ sĩ có lượng album bán ra nhiều nhất ở Nhật sau B'z với hơn 75 triệu đĩa.
Vậy là qua phần trên, mọi người có thể thấy được lịch sử sơ lược của J-Pop. Tuy nhiên trang Wikipedia Tiếng Việt về J-Pop còn thiếu sót rất nhiều so với trang Wiki Tiếng Anh. Nhưng do mình không có thời gian dịch nên mình sẽ chỉ tóm lược một số thông tin về J-Pop những năm gần đây thôi:
Từ năm 2000 trở đi, J-Pop ngày càng trở nên đa dạng. Số nghệ sĩ mới mỗi năm lại nhiều lên, và chất lượng cũng rất tốt. Bây giờ các nghệ sĩ thử sức ở nhiều thể loại mới hơn. Một số đạt được thành công vang dội (VD: Koda Kumi) nhưng số khác lại không còn đc đánh giá cao (VD: globe)
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, lượng bán đĩa càng ngày càng giảm, dù là những nghệ sĩ vô cùng ăn khách trước đây. Nhưng lượng khán giả đến xem các concert lại tăng mạnh, các concert thường xuyên sold out. Đó là 1 sự thay đỏi trong gu thưởng thức của khán giả Nhật.
Cùng với sự xâm nhập của Hallyu (Làn sóng Hàn Quốc), các nghệ sĩ Nhật Bản giờ phải cạnh tranh gắt gao hơn để khẳng định tên tuổi. Nhưng tên tuổi lớn như B'z, Mr.Children, Glay, Ayumi Hamasaki, Namie Amuro, Utada Hikaru, Exile.....vẫn giữ đc sức hút của mình. Nhiều tài năng mới cũng xuất hiện: ayaka, Greeeen, Ikimono Gakari,..... Thể loại nhạc điện tử Electro Pop gắn thời hoàng kim của Yellow Magic Orchesta cũng có những sự đột phá mới, với thành công của nhóm nữ Perfume. Phong cách Visual-kei nhờ X Japan đã nổi tiếng khắp châu Á thập niên 90 thế kỉ trước, và vẫn là 1 biểu tượng văn hóa của Nhật Bản.
Đây là một số nghệ sĩ tiêu biểu của J-Pop những năm 2000:
Ayaka
Greeeen - Đến giờ danh tính 4 thành viên của nhóm vẫn là điều bí ẩn
Ai Otsuka
NHóm pop-rock đầy triển vọng flumpool
w-inds. - Họ đã từng đến VN biểu diễn 2 lần
Alice Nine - nhóm rock visual-kei nổi tiếng
Idol (thần tượng) J-Pop chứng kiến sự lên ngôi của AKB48 và JE Entertainment. Nếu AKB48 sở hữu hệ thống sub-unit hùng hậu như SKE48, NMB48,....... và hệ thống nhà hát riêng khắp cả nước thì JE Ent lại cho ra lò những boyband đầy ấn tượng tiếp bước thành công các boyband thế hệ trước (SMAP, KinKi Kids, V6,..) như KAT-TUN, NEWS, Kanjani 8,......
KAT-TUN
Sơ lược là như vậy đã, mình cũng sẽ giới thiệu 1 số ca khúc J-pop mình yêu thích với mọi người
Mr.Children - Hanabi
[video=youtube;O45bZW9qOxg]http://www.youtube.com/watch?v=O45bZW9qOxg[/video]
flumpool - Hana Ni Nare
[video=youtube;4zyF9MwqZOE]http://www.youtube.com/watch?v=4zyF9MwqZOE[/video]
Utada Hikaru - Prisoner of Love
[video=youtube;W6QjKT1A2pI]http://www.youtube.com/watch?v=W6QjKT1A2pI[/video]
X Japan- Forever Love
[video=youtube;Pa_qDF-f_Gc]http://www.youtube.com/watch?v=Pa_qDF-f_Gc[/video]
AKB48 - Heavy Rotation
[video=youtube;lkHlnWFnA0c]http://www.youtube.com/watch?v=lkHlnWFnA0c[/video]
Arashi - One Love
[video=youtube;DgnI1DxADXo]http://www.youtube.com/watch?v=DgnI1DxADXo[/video]
Greeeen - Kiseki
[video=youtube;s_lcH_2nw-o]http://www.youtube.com/watch?v=s_lcH_2nw-o[/video]
Ai Otsuka - Kingyo Hanabi
[video=youtube;CF5jJJJLxxI]http://www.youtube.com/watch?v=CF5jJJJLxxI[/video]
Vây các mem trong page ta, có ai là fan J-Pop như mình không ^^ ????
Về lich sử Jpop, mình xin lấy từ wikipedia
J-pop là từ viết tắt của Japanese pop (nhạc Pop Nhật Bản), nó cũng là định nghĩa tương đối về một thể loại nhạc đã bùng nổ thị trường âm nhạc Nhật thập niên 1990. Từ này cũng ám chỉ tới những nghệ sĩ âm nhạc nổi tiếng của Nhật và được sử dụng bởi giới truyền thông Nhật để phân biệt những nghệ sĩ âm nhạc Nhật với những nghệ sĩ nước ngoài.
Thập niên 1920 tới 1950: Ryūkōka
Ichiro Fujiyama, ca sĩ nổi tiếng của thể loạiryūkōka
Âm nhạc đại chúng Nhật, được gọi là ryūkōka, được phân chia làm hai thể loại enka và poppusu, có xuất sứ từ thời kì Minh Trị, nhưng phần lớn các học giả Nhật coi thời kì Taishō mới là điểm khởi đầu của ryūkōka, vì đây mới là thời kì mà dòng nhạc này giành được tiếng vang toàn quốc. Vào thời kì Taisho, các nhạc cụ phương Tây, đã được giới thiệu vào Nhật từ thời Minh Trị, được sử dụng rộng rãi. Chịu ảnh hưởng bởi những dòng nhạc của phương Tây như Jazz và Blues, ryūkōka đã kết hợp với những nhạc cụ phương Tây như violin, harmonica và guitar. Tuy nhiên giai điệu thì vẫn được viết theo thang âm Nhật Bản
Thập niên 1960: Nguồn gốc của phong cách hiện đại
Kyu Sakamoto - Ca khúc "Sukiyaki" của ông đã trở thành bài hát tiếng Nhật duy nhất từng dành vị trí quán quân trên Billboard Hot 100.
Năm 1956, phong trào nhạc Rock and Roll phát triển rầm rộ nhờ những nhóm nhạc nổi tiếng như Kosaka Kazuya và Wagon Masters, việc những nhóm nhạc này biểu diễn ca khúc nổi tiếng của Elvis Presley là Heartbreak Hotel càng làm khuấy động nóng cho phong trào. Thể loại này được giới truyền thông Nhật gọi là "Rokabirī"" (ロカビリー). Những ca sĩ học tập thể loại nhạc này và dịch lời các ca khúc nổi tiếng của Mỹ, dẫn đến phong trào Cover Pops (カヴァーポップス ,Kavā poppusu). Phong trào Rokabirī đạt đỉnh cao khi 45,000 khán giả Nhật tới xem buổi biểu diễn của những ca sĩ Nhật tại Carnival phương Tây Nichigeki trong một tuần vào tháng 2 năm 1958.
Thập niên 1970: Phát triển
Huyền thoại Southern All Stars
Yosui Inoue. Album Kori no Sekai của ông đã trụ 13 tuần liên tiếp trên bảng xếp hạng Oricon và là album duy nhất từng làm được điều này.
Đầu thập niên 1960, âm nhạc Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi sự hồi sinh của âm nhạc dân gian Mỹ, điều này được gọi là "fōku" (フォーク), dù cho thể loại nhạc này phần lớn là các bài cover của những ca khúc gốc.
Đầu thập niên 1970, âm nhạc Nhật chuyển từ những ca khúc đơn giản được đệm bởi guitar sang các ca khúc được biên soạn phức tạp hơn được gọi là New Music (ニューミュージック ,nyū myūjikku). Thay vào những thông điệp xã hội, các ca khúc thuộc thể loại này tập trung vào các thông điệp cá nhân như tình yêu.
Thể loại nhạc Rock thời kì này chưa thực sự phát triển ở Nhật. Tuy nhiên đến năm 1978, single "Toki yo Tomare" của rocker Eikichi Yazawa trở thành một hit lớn với hơn 639,000 được bán ra. Ông được tôn vinh là người tiên phong cho nhạc rock Nhật Bản. Trong khi đó, Keisuke Kuwata thành lập nhóm nhạc rock Southern All Stars và cho ra mắt năm 1978. Southern All Stars hiện vẫn nổi tiếng cho tới ngày này. Cùng năm đó, Yellow Magic Orchestra cũng ra đời, ban nhạc gồm 4 thành viên này đã phát triển thể loại electropop. Southern All Stars và Yellow Magic Orchestra đã chấm dứt thời kì của New Music.
Thập niên 1980
Chisato Moritaka - Nữ ca sĩ thần tượng nổi tiếng thập niên 80
Trong thập niên 1980, từ City Pop được dùng để mô tả thể loại nhạc đại chúng lấy bối cảnh thành phố, trong đó thành phố Tokyo đã trở thành nguồn cảm hứng đề tài cho nhiều nghệ sĩ. Dù City Pop bị ảnh hưởng bởi New Music, ban nhạc rock Happy End được coi là một trong những người khai sinh dòng nhạc này ở Nhật.
Trong thập niên này các nghệ sĩ nhạc rock trở nên rất nổi tiếng như Southern All Stars, Anzen Chitai, The Checkers, The Alfee, Boøwy và TM Network. Alfee trở thành nghệ sĩ đầu tiên thu hút được 100,000 tới concert. Boøwy trở thành ban nhạc rock có ảnh hưởng, 3 album của nhóm đã giành được vị trí quán quân năm 1988, giúp họ trở thành những nghệ sĩ nam đầu tiên giành được kì tích này trong vòng một năm. Cuối thập niên 1980, phong trào visual kei nổi lên trong thể loại rock của Nhật, đây là một phong cách nổi bật với các nhóm nhạc nam, họ trang điểm đậm với những kiểu tóc kì quái và những trang phục lưỡng tính. Những đại diện tiêu biểu là X Japan và Buck-Tick.
Thời kì này cũng đánh dấu sự nổi lên của những ca sĩ nhóm nhạc thần tượng như Mari Amachi, Saori Minami, Momoe Yamaguchi, Candies, Akina Nakamori, Kyōko Koizumi, Yōko Oginome, Miho Nakayama, Minako Honda và Chisato Moritaka. Những ca sĩ nhóm nhạc thần tượng đã giành được những thành công đáng kể và hiện vẫn là những thành phần chính của thị trường âm nhạc Nhật.
Thập niên 1990
B'z - Nghệ sĩ bán chạy nhất trong lịch sử Oricon Chart
Mr.Children - nghệ sĩ bán chạy thứ nhì trong lịch sử Oricon Chart
Utada Hikaru - Album "First Love" của cô là album bán chạy nhất lích sư Oricon Chart với 7.6 triệu bản
Đây là giai đoạn mà thị trường âm nhạc Nhật Bản phát triển mạnh mẽ với những chiến lược marketing hiệu quả và tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm âm nhạc với số lượng lớn. Thời kì từ 1990 tới 1993 là giai đoạn âm nhạc Nhật bị thống trị bởi những nhóm nhạc ca sĩ được quản lý bởi các công ty, tiêu biểu là các nghệ sĩ như B'z, Tube, T-Bolan, Zard, Wands, Maki Oguro, Deen, Keiko Utokuvà Field of View. Giai đoạn 1994 tới 1997 dòng nhạc dance/techno xâm lấn với sự nổi lên của những nghệ sĩ như TRF, Ryoko Shinohara, Yuki Uchida, Namie Amuro, Hitomi, Globe, Tomomi Kahala và Ami Suzuki.
Trong giai đoạn từ 1997 tới 1999 là giai đoạn đỉnh cao của thị trường thương mại âm nhạc Nhật Bản với hàng loạt ca sĩ đạt được cột mốc hàng triệu bản CD bán ra thị trường. Trong đó nổi bật nhất là việc Hikaru Utada bán được 7.650.000 bản cho album đầu tay First Love sau khi nó được tung ra thị trường tháng 3 năm 1999.
Thập niên 2000: Đa dạng hóa
Những nghệ sĩ tiêu biểu của J-Pop thập niên 2000: Arashi và AKB48
Thập niên 2000, những ảnh hưởng của dòng nhạc R&B và Hip Hop tràn tới Nhật. Tháng 11 năm 2000, nhóm nhạc R&B Chemistry bán được 1.14 triệu bản trong tuần đầu tiên The Way We Are.Hay album MusiQ của Orange Range tiêu thụ được 2.5 triệu bản, biến nó trở thành album ăn khách nhất năm 2005.
Đây là giai đoạn nổi lên sự xuất hiện của công ty quản lý nổi tiếng Johnny & Associates, công ty đã đào tào hàng loạt tên tuổi đình đám của âm nhạc Nhật giai đoạn này. Ca sĩ Ayumi Hamasaki tạo nên một cơn chấn động trong lịch sử Giải Thu âm Nhật Bản khi trở thành ca sĩ đầu tiên dành 3 giải grand pix liên tiếp từ 2001 tới 2003.
Thời kỳ này cũng đánh dấu sự trở lại của những cựu binh làng nhạc Nhật. Mặc dù tỉ lệ bán album ngày càng sụt giảm nhưng lượng khán giả tới xem các buổi diễn ngày càng gia tăng. Năm 2007, Eikichi Yazawa trở thành nghệ sĩ đầu tiên biểu diễn 100 lần tại Nippon Budokan. Những nghệ sĩ rock như Mr. Children, B'z, Southern All Stars và Glay vẫn giành được vị trí quán quân trong giai đoạn này. Ca khúc "Sign" của Mr. Children đã giành được giải Grand pix tại Giải Thu âm Nhật Bản năm 2004. Album Home năm 2007 của Mr. Children cũng giúp nhóm vượt qua cột mốc 50 triệu đĩa bán ra tại Nhật, giúp nhóm trở thành nghệ sĩ có lượng album bán ra nhiều nhất ở Nhật sau B'z với hơn 75 triệu đĩa.
Vậy là qua phần trên, mọi người có thể thấy được lịch sử sơ lược của J-Pop. Tuy nhiên trang Wikipedia Tiếng Việt về J-Pop còn thiếu sót rất nhiều so với trang Wiki Tiếng Anh. Nhưng do mình không có thời gian dịch nên mình sẽ chỉ tóm lược một số thông tin về J-Pop những năm gần đây thôi:
Từ năm 2000 trở đi, J-Pop ngày càng trở nên đa dạng. Số nghệ sĩ mới mỗi năm lại nhiều lên, và chất lượng cũng rất tốt. Bây giờ các nghệ sĩ thử sức ở nhiều thể loại mới hơn. Một số đạt được thành công vang dội (VD: Koda Kumi) nhưng số khác lại không còn đc đánh giá cao (VD: globe)
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, lượng bán đĩa càng ngày càng giảm, dù là những nghệ sĩ vô cùng ăn khách trước đây. Nhưng lượng khán giả đến xem các concert lại tăng mạnh, các concert thường xuyên sold out. Đó là 1 sự thay đỏi trong gu thưởng thức của khán giả Nhật.
Cùng với sự xâm nhập của Hallyu (Làn sóng Hàn Quốc), các nghệ sĩ Nhật Bản giờ phải cạnh tranh gắt gao hơn để khẳng định tên tuổi. Nhưng tên tuổi lớn như B'z, Mr.Children, Glay, Ayumi Hamasaki, Namie Amuro, Utada Hikaru, Exile.....vẫn giữ đc sức hút của mình. Nhiều tài năng mới cũng xuất hiện: ayaka, Greeeen, Ikimono Gakari,..... Thể loại nhạc điện tử Electro Pop gắn thời hoàng kim của Yellow Magic Orchesta cũng có những sự đột phá mới, với thành công của nhóm nữ Perfume. Phong cách Visual-kei nhờ X Japan đã nổi tiếng khắp châu Á thập niên 90 thế kỉ trước, và vẫn là 1 biểu tượng văn hóa của Nhật Bản.
Đây là một số nghệ sĩ tiêu biểu của J-Pop những năm 2000:
Ayaka
Greeeen - Đến giờ danh tính 4 thành viên của nhóm vẫn là điều bí ẩn
Ai Otsuka
NHóm pop-rock đầy triển vọng flumpool
w-inds. - Họ đã từng đến VN biểu diễn 2 lần
Alice Nine - nhóm rock visual-kei nổi tiếng
Idol (thần tượng) J-Pop chứng kiến sự lên ngôi của AKB48 và JE Entertainment. Nếu AKB48 sở hữu hệ thống sub-unit hùng hậu như SKE48, NMB48,....... và hệ thống nhà hát riêng khắp cả nước thì JE Ent lại cho ra lò những boyband đầy ấn tượng tiếp bước thành công các boyband thế hệ trước (SMAP, KinKi Kids, V6,..) như KAT-TUN, NEWS, Kanjani 8,......
KAT-TUN
Sơ lược là như vậy đã, mình cũng sẽ giới thiệu 1 số ca khúc J-pop mình yêu thích với mọi người
Mr.Children - Hanabi
[video=youtube;O45bZW9qOxg]http://www.youtube.com/watch?v=O45bZW9qOxg[/video]
flumpool - Hana Ni Nare
[video=youtube;4zyF9MwqZOE]http://www.youtube.com/watch?v=4zyF9MwqZOE[/video]
Utada Hikaru - Prisoner of Love
[video=youtube;W6QjKT1A2pI]http://www.youtube.com/watch?v=W6QjKT1A2pI[/video]
X Japan- Forever Love
[video=youtube;Pa_qDF-f_Gc]http://www.youtube.com/watch?v=Pa_qDF-f_Gc[/video]
AKB48 - Heavy Rotation
[video=youtube;lkHlnWFnA0c]http://www.youtube.com/watch?v=lkHlnWFnA0c[/video]
Arashi - One Love
[video=youtube;DgnI1DxADXo]http://www.youtube.com/watch?v=DgnI1DxADXo[/video]
Greeeen - Kiseki
[video=youtube;s_lcH_2nw-o]http://www.youtube.com/watch?v=s_lcH_2nw-o[/video]
Ai Otsuka - Kingyo Hanabi
[video=youtube;CF5jJJJLxxI]http://www.youtube.com/watch?v=CF5jJJJLxxI[/video]
Vây các mem trong page ta, có ai là fan J-Pop như mình không ^^ ????
Chỉnh sửa lần cuối: